Phát huy bài học về sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong toàn quốc kháng chiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

12/14/2021 1:09:57 PM

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân. Song, thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm, quay lại xâm lược nước ta lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, đánh dấu thời khắc cả nước bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến và trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, kiến quốc.

Trên cơ sở nhận định, đánh giá đúng tình hình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định, muốn bảo vệ được chính quyền cách mạng và chuẩn bị, tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược, phải huy động sức mạnh của toàn dân - yếu tố quyết định thắng lợi trong tình hình cực kỳ khó khăn này. Để tập hợp, đoàn kết được lực lượng toàn dân, công việc đầu tiên và cấp bách là giải quyết những nhu cầu bức xúc của nhân dân, đó cũng là những công việc cần giải quyết của Chính quyền cách mạng. Thực hiện chủ trương đó, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 việc cấp bách cần làm ngay: (1) phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất; (2) mở ngay một phong trào chống nạn mù chữ; (3) tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân; (4) mở ngay một phong trào giáo dục cần, kiệm, liêm, chính để bài trừ những thói hư tật xấu do chế độ thực dân để lại; (5) bỏ ngay ba thứ thuế: thuế thân, thuế chợ, thuế đò; (6) tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn kết1.

Nhân dân Thủ đô Hà Nội dựng chiến lũy chống giặc Pháp tại phố
Mai Hắc Đế (Ảnh: Tư liệu)

Để thực hiện những nhiệm vụ trên, chính quyền cách mạng thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân nghèo, giảm tô, giảm thuế, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, v.v. Đối với giai cấp công nhân thực hiện chế độ lao động ngày 08 giờ và có quyền học tập, huấn luyện các nội dung về quân sự, chính trị do chính quyền cách mạng và các đoàn thể tổ chức, v.v. Với các chủ trương lãnh đạo đúng đắn, kiên quyết của Đảng và Chính phủ, lòng nhiệt tình cách mạng và ý chí quyết tâm khắc phục khó khăn của toàn dân, nạn đói được đẩy lùi, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục, đời sống vật chất của nhân dân, nhất là nông dân dần được ổn định. Trên mặt trận chống ngoại xâm, cùng với chủ trương xây dựng quân đội thường trực, Đảng và Chính phủ đặt rất cao việc xây dựng các lực lượng bán vũ trang gồm dân quân ở nông thôn và tự vệ chiến đấu ở thành thị. Đặc biệt, cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 06/01/1946 - ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhân dân ta được hưởng quyền dân chủ của mình - thắng lợi, là đòn nặng nề đánh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của các thế lực đế quốc và phản động. Đó cũng là cuộc vận động chính trị rộng lớn và sâu sắc, có ý nghĩa chính trị to lớn biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá của khối đoàn kết toàn dân, quyết tâm bảo vệ, giữ vững chính quyền cách mạng. Cùng với đó, Đảng và Chính phủ ta chú trọng xây dựng, mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, coi đó là công việc quan trọng, cấp bách trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền nhân dân, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Tháng 5/1946, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các tổ chức, như: Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Đảng Xã hội Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lần lượt được ra đời, mọi tầng lớp nhân dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp đều được tập trung trong các tổ chức của mình, đoàn kết xung quanh Mặt trận Việt Minh, Chính phủ cách mạng. Đây là cơ sở, tiền đề để Đảng ta tiếp tục động viên, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực, trí tuệ, sức lực của các tầng lớp, giai cấp và toàn dân, tạo sức mạnh tổng hợp để giữ vững Chính quyền cách mạng, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, một lần nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc lại được phát huy cao độ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa Xuân năm 1975.

Bước vào thời kỳ mới, Đảng ta luôn coi trọng, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:

Một là, Đảng và Nhà nước luôn quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, coi đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1986, trên cơ sở tổng kết thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đại hội VI của Đảng đã đề ra và thông qua đường lối đổi mới toàn diện đất nước; trong đó, Đảng ta chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn và bài học đầu tiên là: “Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”2, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Từ đó đến nay, qua các kỳ đại hội, Đảng luôn khẳng định: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta”3.

Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết dân tộc và công tác xây dựng Mặt trận, ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07/NQ-TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”. Tiếp đó, liên tục từ Đại hội VII (năm 1991) đến Đại hội IX (năm 2001), vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được khẳng định trong Nghị quyết của Đảng, như một thành tố quan trọng, nguồn sức mạnh to lớn, có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, năm 2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ư­ơng Đảng khóa IX ra Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tại Hội nghị này, Đảng sử dụng thuật ngữ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho thuật ngữ “đại đoàn kết toàn dân” với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ ở trong nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là một bước phát triển mới về tư duy đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và đến Đại hội lần thứ XI (năm 2011), vấn đề Đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta xác định là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Từ đó đến nay, vấn đề Đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được Đảng khẳng định “là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”4.

Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc là khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo, các giai tầng xã hội, giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Để triển khai đường lối đại đoàn kết dân tộc mà Đại hội Đảng các khóa đã đề ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết chuyên đề về vấn đề xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phù hợp với các đối tượng5. Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về công tác dân tộc, tôn giáo, thanh niên, phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, người Việt Nam ở nước ngoài; các chương trình phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, v.v. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chúng ta không chỉ khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, mà còn kết hợp chặt chẽ giữa đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp giữa nội lực và ngoại lực, lấy phát huy nội lực là nhân tố quyết định, tạo sức mạnh tổng hợp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, thường xuyên quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, các cấp ủy đảng, chính quyền và Mặt trận phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tin dân, tôn trọng, lắng nghe những ý kiến khác; có hình thức, cơ chế, biện pháp cụ thể, thích hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Bốn là, Đảng, Nhà nước cần chủ động nắm bắt tình hình và đề ra những chủ trương, biện pháp sát thực nhằm xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc. Kinh tế phát triển nhanh, ổn định; đời sống văn hóa và vật chất của nhân dân được cải thiện; quốc phòng, an ninh thường xuyên được tăng cường; uy tín quốc tế được nâng cao. Bên cạnh kết quả đạt được, đất nước đang đứng trước nhiều thách thức, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế này đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Điều đó, đòi hỏi Đảng phải chú trọng xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các hình thức tổ chức cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình để nhân dân được phát huy đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, có điều kiện phát triển tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân và cho đất nước; đấu tranh phản bác có hiệu quả âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch.

Năm là, để tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng, Nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ. Trước hết, đó là sự tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng sự đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ động tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia xây dựng, phản biện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của người dân. Đồng thời, xử lý nghiêm các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Sáu là, Đảng, Nhà nước cần tăng cường bồi dưỡng sức dân, thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, cần quan tâm đúng mức phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và vùng đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có đông đồng bào tôn giáo sinh sống và thực hiện tốt nhiệm vụ công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới. Chính quyền các cấp quan tâm chăm lo từng hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; vận động và giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Phát huy vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn; đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng các vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo” làm phương hại đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bảy là, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh. Toàn Đảng tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Cùng với việc xây dựng tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, cần đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân, hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm, thực sự là công bộc của nhân dân. Cần đề cao vai trò nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có quyền; kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân; xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm theo quy định của pháp luật để củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Tám là, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò nòng cốt. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay là: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc;... Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.

Để phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư; làm tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; đẩy mạnh hoạt động đối ngoại của Mặt trận và các tổ chức thành viên. Mặt trận Tổ quốc tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần thi đua lao động sáng tạo của nhân dân và sự chung sức của cả cộng đồng trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội; tham gia phòng, chống dịch Covid-19; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, giảm nghèo bền vững, v.v.

Bài học về sức mạnh đoàn kết dân tộc trong những năm tháng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất là trong mở đầu toàn quốc kháng chiến, đã và đang được Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy cao độ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công, nhất định đất nước ta sẽ phát triển hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

ĐỖ VĂN CHIẾN, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
_________________

1 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 6 - 7.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb ST, H. 1987, tr. 213.

3 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 51, Nxb CTQG, H. 2007, tr. 130.

4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H. 2016, tr. 158.

5 - Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 “Về công tác tôn giáo”; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 “Về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 36/NQ-TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008 “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị “Về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, v.v.

6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 172.