Ngày 04/5/2025, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII) về phát triển kinh tế tư nhân (gọi tắt là Nghị quyết 68). Ngay sau khi Nghị quyết 68 được ban hành, các phần tử thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước triệt để lợi dụng các nền tảng mạng xã hội để xuyên tạc mục đích và nội dung cốt lõi của Nghị quyết, nhằm gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội về đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta. Vì thế, nhận diện, đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái đó sẽ góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
![]() |
| Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại Phiên đối thoại cấp cao Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam (VPSF) 2025. Ảnh Dương Giang/TTXVN |
Với những quan điểm và giải pháp rất cơ bản, có tính chiến lược, Nghị quyết 68 mở đường cho một giai đoạn phát triển bứt phá mới của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Từ chỗ bị xem nhẹ, định kiến, nay kinh tế tư nhân ở Việt Nam được Đảng ta khẳng định: “là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”. Đây là sự phát triển nhận thức có tính đột phá của Đảng ta về kinh tế tư nhân.
Trong khi cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và các tầng lớp Nhân dân ta hồ hởi, phấn khởi đón nhận luồng sinh khí mới từ Nghị quyết 68, thì như thường lệ, mỗi khi Đảng ta ban hành những chủ trương, quyết sách mới để phát triển đất nước, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tung ra nhiều luận điệu sai trái trên các nền tảng mạng xã hội, nhất là trên các trang mạng xã hội kênh tiếng Việt của BBC, RFI, RFA hay của tổ chức khủng bố Việt Tân. Thông qua những cái được gọi là “hội luận, hội thảo”; núp bóng dưới những “kiến nghị”, “ý kiến tâm huyết với đất nước”, họ cho rằng: với việc công nhận “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”, Việt Nam đang chuẩn bị cho sự “đổi màu, xoay trục trong chính sách phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa”, hoặc đang “tư bản hóa nền kinh tế”, hay “gác lại chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa” (!). Một số đối tượng còn “góp ý”, với việc thực hiện Nghị quyết 68, Việt Nam nên bỏ “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong phát triển nền kinh tế thị trường (!), v.v. Đây là những luận điệu sai trái, mà mục tiêu hướng đến là gieo rắc sự hoài nghi vào đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tác động xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội. Từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân ta.
Trước tình hình đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; đồng thời, khẳng định quan điểm của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân trong Nghị quyết 68 là sự đột phá về tư duy lý luận mang tầm chiến lược, phù hợp với thực tiễn và định hướng phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, phát triển hùng cường, thịnh vượng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, cần thấy rằng, Nghị quyết 68 là sự tiếp nối và cụ thể hóa chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đảng ta thực hiện nhất quán trong gần 40 năm đổi mới, khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI (tháng 12/1986). Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ hơn vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, qua mỗi kỳ đại hội, chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ngày càng nhận được sự bổ sung, hoàn thiện, gắn liền với những quan điểm ngày càng cởi mở, sát thực tiễn, phù hợp với sự trưởng thành của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. Nếu ở Đại hội VI, kinh tế tư nhân mới chỉ được thừa nhận tồn tại và khuyến khích phát triển trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, thì đến Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15/7/1988 của Bộ Chính trị (khóa VI) “Về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh” và Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 29/3/1989 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI), Đảng ta đã khẳng định: kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
![]() |
| Công nhân Công ty Tân Á Đại Thành hăng say làm việc. Ảnh: nhandan.vn |
Đến Đại hội lần thứ X (tháng 4/2006), kinh tế tư nhân được xác định “là một trong những động lực của nền kinh tế”1. Đại hội đã thông qua một quyết định rất quan trọng là cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Đại hội XI (tháng 01/2011) tiếp tục quán triệt tinh thần của Đại hội X và yêu cầu phải: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”2. Đến Đại hội XII (tháng 01/2016), Đảng chính thức xác nhận: kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và yêu cầu: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”3. Tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 03/6/2017 về “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhất quán với quan điểm về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân mà Đại hội XII đã xác định, Đại hội XIII (tháng 01/2021) của Đảng nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao”4; đồng thời yêu cầu: “Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân”5.
Như vậy, việc khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một chủ trương nhất quán của Đảng ta trong suốt gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới. Nghị quyết 68 là sự tiếp nối của chủ trương đó, với những quyết sách mang tính đột phá trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ hơn vai trò của kinh tế tư nhân, gắn liền với sự lớn mạnh của khu vực kinh tế này trong gần 40 năm qua, chứ không phải là bước chuẩn bị cho sự “đảo chiều”, hay “xoay trục” như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch rêu rao.
Thứ hai, việc Đảng ta ban hành Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân với những tư duy lý luận và giải pháp mang tính đột phá, không phải là “từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin” như các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc. Ngược lại, đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, nhất là thực tiễn của gần 40 năm đổi mới. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, khi trả lời câu hỏi số 17: “Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?”, Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”6. Sau này, V.I. Lênin cũng chỉ rõ đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có những thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân. Người chỉ rõ: “…chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”7 và rằng: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”8.
Đối chiếu vào thực tiễn nước ta, với xuất phát điểm là một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến, lực lượng sản xuất của xã hội còn nhiều trình độ, thì duy trì nền kinh tế nhiều thành phần nói chung, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển nói riêng, là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế… Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”9.
Thực tiễn gần 40 năm đổi mới đất nước cho thấy: chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đúng đắn, cho phép giải phóng lực lượng sản xuất của xã hội, khai thác tối đa tiềm năng phát triển của kinh tế tư nhân cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Kinh tế tư nhân ở nước ta từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến nay, khu vực kinh tế tư nhân có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 05 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm; là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới, như: Vin Group, Sun Group, CT Group, TH Group, FPT, Hòa Phát, Trung Nguyên, Vinamilk, Vietjet, Thaco, v.v.
Tuy nhiên, như nhận định của Nghị quyết 68 cho thấy, sự phát triển của khu vực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Nguyên nhân của những hạn chế này có nhiều, nhưng chủ yếu là do tư duy, nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân chưa đầy đủ và chưa theo kịp yêu cầu phát triển; thể chế, pháp luật còn vướng mắc, bất cập; công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, kinh tế tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực quan trọng như vốn, công nghệ, đất đai, tài nguyên và đặc biệt là nhân lực chất lượng cao. Một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả, khó tiếp cận.
Trước bối cảnh đó, việc đổi mới tư duy và có những giải pháp đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng, vai trò của kinh tế tư nhân là yêu cầu cấp bách. Việc ban hành Nghị quyết 68 chính là bước chuyển, mang tính đột phá về tư duy chiến lược, khi kinh tế tư nhân đã lớn mạnh hơn, đòi hỏi phải có một khung khổ pháp lý và chính sách đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để khu vực kinh tế này phát triển lành mạnh, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc coi “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” chính là sự ghi nhận khách quan những đóng góp to lớn của khu vực kinh tế này, đồng thời cũng thể hiện cam kết chính trị của Đảng trong việc tiếp tục giải phóng sức sản xuất của xã hội, khơi dậy tiềm năng, tạo động lực mới cho sự phát triển của kinh tế tư nhân.
Thứ ba, các quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân mà Nghị quyết 68 đề ra không ngoài mục đích nhằm hiện thực hóa các mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại quan điểm chỉ đạo thứ nhất, Nghị quyết khẳng định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia… cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân giữ vai trò nòng cốt để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả, đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, vươn lên phát triển thịnh vượng”. Tại quan điểm chỉ đạo thứ hai, Nghị quyết nhấn mạnh mục đích phát triển kinh tế tư nhân “nhằm phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, kích hoạt, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là nguồn lực trong Nhân dân cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh, tăng cường đối ngoại và hội nhập quốc tế”.
Như vậy, Nghị quyết 68 đâu có mở đường cho quá trình “tư bản hóa nền kinh tế” (!). Cần nhấn mạnh rằng, theo Nghị quyết 68, kinh tế tư nhân ở nước ta được khuyến khích phát triển trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nên không thể dẫn đến xu hướng “tư bản hóa” nền kinh tế. Trong nền kinh tế đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Vai trò “chủ đạo” và vai trò “động lực” của mỗi thành phần kinh tế là khác nhau. Nghị quyết 68 không trao vai trò chủ đạo, định hướng, dẫn dắt nền kinh tế cho kinh tế tư nhân, mà vai trò đó vẫn thuộc về kinh tế nhà nước.
Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV, Đảng ta vẫn xác định rõ: “Phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế… Xây dựng một số tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có năng lực cạnh tranh quốc tế, đóng vai trò trụ cột, tiên phong trong một số lĩnh vực quan trọng”10. Như vậy, Đảng ta khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong khuôn khổ pháp luật, dưới sự quản lý của Nhà nước, gắn liền với vai trò là động lực thúc đẩy tăng trưởng, giải phóng sức sản xuất của xã hội, chứ không phải là quá trình “tư bản hóa”, “xây dựng chủ nghĩa tư bản thân hữu”, hay “đang từ bỏ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội” như các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị rêu rao, xuyên tạc.
Nhận thức đúng nội dung Nghị quyết 68 và tích cực đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc Nghị quyết này là hai nhiệm vụ cơ bản, cấp bách trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để đấu tranh hiệu quả với các luận điệu sai trái, xuyên tạc Nghị quyết 68, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp Nhân dân về nội dung Nghị quyết 68 nói riêng, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng nói chung. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; trong đó, cơ quan Tuyên giáo và Dân vận các cấp, nhất là đội ngũ những người làm báo, đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà nghiên cứu cần chủ động, kịp thời phản bác các thông tin sai trái. Đồng thời, tích cực lan tỏa những điển hình tiên tiến, mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã làm ăn chân chính, có trách nhiệm xã hội. Đây sẽ là những minh chứng sinh động nhất, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.
NGUYỄN NGỌC HỒI
_________________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 83.
2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG-ST, H. 2011, tr. 101.
3 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG-ST, H. 2016, tr. 107 - 108.
4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021, tr. 130.
5 - Sđd, tr. 240.
6 - C. Mác và Ph. Ăngghen – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQGST, H. 1995, tr. 469.
7 - V. I. Lênin – Toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 276.
8 - Sđd, Tập 44, tr. 189.
9 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQGST, H. 2011, tr. 73.
10 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp xã, cấp tỉnh và tương đương), Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 33.


