Tổ chức công tác kỹ thuật của quân đội một số nước trên thế giới và bài học đối với Quân đội nhân dân Việt Nam

11/4/2025 3:52:46 PM

Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ quân sự làm cho công tác kỹ thuật trở thành một trong những nhân tố quyết định sức mạnh chiến đấu của quân đội hiện đại. Do đó, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức công tác kỹ thuật của quân đội một số nước trên thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong phát triển công tác kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

Hội thảo bản thảo lần 1 Đề tài độc lập cấp quốc gia “Nghiên cứu phát triển lý luận công tác kỹ thuật của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới”. Nguồn: qdnd.vn

Trong tiến trình hiện đại hóa quân đội, tổ chức công tác kỹ thuật quân sự được các quốc gia đặc biệt coi trọng như một trụ cột bảo đảm cho sức mạnh chiến đấu. Mỗi nước có mô hình tổ chức riêng phù hợp với điều kiện kinh tế, khoa học - công nghệ và đặc điểm chiến lược quốc phòng, song đều hướng đến các mục tiêu cơ bản: tự chủ về công nghệ, quản lý thống nhất theo vòng đời trang bị và liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng. Từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu, phân tích kinh nghiệm tổ chức công tác kỹ thuật của quân đội một số nước để rút ra bài học vận dụng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam nhằm góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp, khả năng sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là yêu cầu cần thiết.

Thực tiễn tổ chức công tác kỹ thuật của quân đội một số nước trên thế giới

1. Liên bang Nga - mô hình kết hợp chặt giữa công nghiệp quốc phòng và bảo đảm kỹ thuật theo vòng đời. Trên cơ sở Chiến lược An ninh quốc gia, Nga xây dựng nền công nghiệp quốc phòng phát triển toàn diện, tập trung đầu tư vào các lĩnh vực then chốt, như: tên lửa, hàng không vũ trụ, điện tử, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo. Điểm nổi bật trong tổ chức bảo đảm kỹ thuật là cơ chế quản lý trang bị theo vòng đời, tức mọi khâu từ thiết kế, sản xuất, thử nghiệm, sử dụng, bảo dưỡng đến loại bỏ đều được quản lý thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở công nghiệp quốc phòng và đơn vị sử dụng.

Bộ Quốc phòng Nga giao Tổng cục Trang bị Kỹ thuật làm đầu mối điều phối, chỉ đạo công tác kỹ thuật toàn quân, bảo đảm tính thống nhất giữa các quân, binh chủng. Cùng với đó, Nga tổ chức lực lượng kỹ thuật thành ba thành phần: thường trực, bán vũ trang và dự bị, tạo tiềm lực kỹ thuật quân sự vững chắc, bảo đảm khả năng cơ động, linh hoạt khi có tình huống. Mô hình này giúp Nga duy trì trạng thái kỹ thuật cao của trang bị, rút ngắn chu trình nghiên cứu - sản xuất - thử nghiệm, đồng thời nâng cao năng lực thích ứng trước yêu cầu tác chiến hiện đại. Đặc biệt, trong điều kiện bị cấm vận toàn diện, Nga vẫn duy trì năng lực sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật nhờ chính sách “kinh tế thời chiến” mới, kết hợp sức mạnh của các viện nghiên cứu, tập đoàn công nghiệp và lực lượng kỹ thuật quân đội - minh chứng rõ nét cho tính bền vững của mô hình bảo đảm kỹ thuật vòng đời.

2. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tổ chức thống nhất, quản lý tập trung công tác kỹ thuật. Từ chỗ phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, Trung Quốc đã từng bước tự chủ công nghệ, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng “cơ giới hóa - tin học hóa - thông minh hóa”, tiến tới vận hành cơ chế quản lý theo vòng đời sản phẩm. Nhằm tăng cường tiềm lực kỹ thuật quân sự, Trung Quốc xây dựng lực lượng kỹ thuật trong ba thành phần: thường trực, bán quân sự và dự bị, đồng thời hình thành cơ chế quản lý thống nhất từ trung ương đến đơn vị chiến đấu. Năm 1998, Trung Quốc thành lập Tổng cục Trang bị, thay thế cơ chế quản lý phân tán trước đây, đảm nhiệm chỉ đạo nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm, mua sắm và bảo đảm kỹ thuật cho vũ khí, trang bị kỹ thuật toàn quân. Ở cấp chiến khu, tổ chức Cục Trang bị phụ trách công tác kỹ thuật và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Mô hình quản lý tập trung này tạo điều kiện ứng dụng công nghệ cao, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo trong bảo đảm kỹ thuật, đồng thời nâng cao hiệu quả điều hành, thống nhất tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các lực lượng. Hiện nay, Trung Quốc đang đẩy mạnh chuyển đổi số trong công nghiệp quốc phòng, tích hợp công nghệ AI và dữ liệu lớn trong quản lý, bảo dưỡng, sản xuất. Việc kết hợp giữa công nghiệp quốc phòng và công nghiệp dân dụng, nhất là các tập đoàn công nghệ nhà nước, giúp nước này nhanh chóng nâng cao năng lực bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, phục vụ mục tiêu “xây dựng quân đội 100 năm” theo tinh thần Đại hội XX Đảng Cộng sản Trung Quốc.

3. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - quản lý khoa học, cơ chế bảo đảm kỹ thuật phân tán nhưng thống nhất. Khác với cơ chế tập trung của Trung Quốc, Hoa Kỳ áp dụng mô hình tổ chức công tác kỹ thuật phân tán nhưng quản lý thống nhất về tiêu chuẩn, quy trình và chu trình vòng đời trang bị. Mỗi quân chủng đều có cơ quan trang bị chuyên trách, chịu trách nhiệm toàn bộ từ nghiên cứu, phát triển, mua sắm đến bảo đảm kỹ thuật, tiêu chuẩn hóa và loại biên. Cơ chế quản lý kỹ thuật của Hoa Kỳ vận hành theo chu trình khép kín “đầu tư - phát triển - sử dụng - tái tạo”, trong đó coi trọng việc đánh giá hiệu suất kỹ thuật, độ tin cậy và tuổi thọ vũ khí theo thời gian thực. Về xây dựng tiềm lực kỹ thuật quân sự, Hoa Kỳ duy trì ba thành phần kỹ thuật: lực lượng thường trực, lực lượng dự bị và vệ binh quốc gia, bảo đảm tính bền vững, linh hoạt và khả năng huy động nhanh. Bên cạnh đó, quân đội Hoa Kỳ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và mạng lưới cảm biến thông minh trong bảo trì, bảo dưỡng, cho phép giám sát trạng thái từng trang bị theo thời gian thực, tối ưu chi phí và nâng cao hệ số sẵn sàng chiến đấu. Mô hình quản lý kỹ thuật của Hoa Kỳ thể hiện trình độ quản trị hiện đại, kết hợp hiệu quả giữa nhà nước, quân đội và các tập đoàn công nghiệp quốc phòng tư nhân, tạo nên hệ sinh thái kỹ thuật thống nhất, linh hoạt và bền vững, v.v.

Qua nghiên cứu có thể thấy, mặc dù khác nhau về thể chế, trình độ phát triển và quy mô lực lượng, song điểm chung nổi bật ở các quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng hiện đại đều lựa chọn mô hình tổ chức công tác kỹ thuật hướng tới tính đồng bộ, tự chủ, kết nối chặt chẽ giữa sản xuất - khai thác - bảo đảm - hiện đại hóa và quản lý vòng đời vũ khí, trang bị kỹ thuật, coi đây là hướng phát triển tất yếu để duy trì trạng thái kỹ thuật ổn định, rút ngắn chu kỳ đổi mới trang bị và tối ưu hóa chi phí đầu tư quốc phòng.

Xe bệ phóng (VLV-01) và tên lửa đối hạm Sông Hồng (VSM-01A). Nguồn: qdnd.vn

Bài học về tổ chức công tác kỹ thuật đối với Quân đội nhân dân Việt Nam

Nhận thức sâu sắc vai trò then chốt của công tác kỹ thuật trong xây dựng Quân đội hiện đại, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định đây là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược quốc phòng và chiến lược xây dựng Quân đội. Quan điểm nhất quán là: xây dựng và phát triển công tác kỹ thuật phải đặt trong tổng thể quá trình hiện đại hóa Quân đội, gắn chặt với phát triển công nghiệp quốc phòng, khoa học - công nghệ và nền kinh tế quốc dân. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác kỹ thuật toàn quân đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: hệ thống quản lý kỹ thuật từng bước được chuẩn hóa; nhiều dây chuyền công nghệ sửa chữa, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật được hiện đại hóa; một số sản phẩm công nghệ cao đã được nghiên cứu, chế tạo thành công trong nước. Tuy nhiên, công tác kỹ thuật vẫn còn những hạn chế, bất cập cần sớm được khắc phục. Bên cạnh đó, do quản lý, sử dụng nhiều thế hệ vũ khí, trang bị kỹ thuật cũ, mới đan xen nên việc nghiên cứu, nắm bắt thực tiễn công tác kỹ thuật từ các nước tiên tiến để vận dụng phù hợp với đặc thù Việt Nam là vấn đề quan trọng, cấp thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện đại.

Từ thực tiễn đó, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kỹ thuật, Quân đội ta cần nghiên cứu, kế thừa kinh nghiệm của các nước tiên tiến phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam trên một số định hướng lớn như sau:

Một là, tổ chức hệ thống quản lý công tác kỹ thuật theo hướng thống nhất, đồng bộ và quản lý vòng đời trang bị. Đây là xu thế phát triển khách quan, phản ánh trình độ quản trị hiện đại về công tác kỹ thuật của quân đội các nước tiên tiến - giải pháp tối ưu để duy trì hiệu quả khai thác, tiết kiệm chi phí và bảo đảm trạng thái kỹ thuật bền vững. Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống quản lý kỹ thuật trong Quân đội vẫn còn tình trạng phân tán, thiếu đồng bộ giữa các quân, binh chủng và đơn vị cơ sở. Cơ chế điều hành, giám sát tình trạng kỹ thuật của vũ khí, trang bị kỹ thuật chưa được số hóa toàn diện, dẫn đến tình trạng chồng chéo trong báo cáo, thống kê, đánh giá độ tin cậy trang bị. Nhiều trang bị thế hệ cũ vẫn được duy trì khai thác nhưng thiếu dữ liệu vòng đời, không có hồ sơ kỹ thuật đầy đủ, gây khó khăn trong bảo dưỡng, sửa chữa.

So với mô hình quản lý vòng đời vũ khí, trang bị kỹ thuật của các nước tiên tiến, công tác kỹ thuật của ta mới dừng ở mức quản lý theo chu kỳ sử dụng, chưa thực sự khép kín theo “vòng đời sản phẩm”. Chính vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý kỹ thuật thống nhất từ Bộ Quốc phòng đến các đơn vị cơ sở, kết nối giữa khối nghiên cứu - sản xuất - khai thác, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, hình thành cơ sở dữ liệu tập trung trong quản lý hồ sơ kỹ thuật, kiểm định và giám sát tình trạng vũ khí, trang bị kỹ thuật. Chú trọng kiện toàn tổ chức các chuyên ngành kỹ thuật theo hướng tinh, gọn, chuyên sâu, phát huy hiệu lực chỉ huy và khả năng tham mưu chiến lược. Cùng với đó, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tư duy quản lý khoa học, am hiểu công nghệ, làm chủ các hệ thống quản lý vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại.

Xe tăng T-90S/SK trong khối trưng bày ngoài trời tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam 2024. Nguồn: qdnd.vn

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia. Đây là bài học phổ biến trong tổ chức công tác kỹ thuật của các nước phát triển. Việc kết hợp chặt giữa công nghiệp quốc phòng và công nghiệp dân dụng góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, đồng thời bảo đảm nguồn lực hài hòa, bền vững cho hiện đại hóa quân đội, phát triển kinh tế. Ở nước ta, sự gắn kết giữa công nghiệp quốc phòng và công nghiệp dân dụng đã được coi trọng song còn hạn chế. Một số nhà máy quốc phòng còn công nghệ cũ; năng lực nghiên cứu, thiết kế và chế tạo vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu. Cơ chế chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp dân dụng tham gia sản xuất, bảo đảm kỹ thuật phục vụ quốc phòng thiếu đồng bộ, v.v.

Khắc phục vấn đề trên, cần phát huy hơn nữa cơ chế phối hợp giữa các viện nghiên cứu, nhà máy quốc phòng với các doanh nghiệp lớn trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực cơ khí chính xác, điện tử, vật liệu mới và công nghệ phần mềm. Xây dựng cơ chế khuyến khích, ưu đãi về vốn, thuế, đào tạo nhân lực cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật theo hướng “lưỡng dụng”, phục vụ cả kinh tế và quốc phòng. Bên cạnh đó, cần sớm hình thành các tổ hợp công nghiệp - kỹ thuật quốc phòng lưỡng dụng có tính liên kết, thúc đẩy sự tương tác giữa các cơ sở nghiên cứu, doanh nghiệp quốc phòng và doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt, cần đẩy mạnh nghiên cứu - phát triển, từng bước làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi, hướng tới tự sản xuất, chủ động bảo đảm vũ khí chiến lược, góp phần khẳng định năng lực tự chủ quốc gia về quốc phòng, an ninh.

Ba là, xây dựng tiềm lực kỹ thuật quân sự vững chắc, sẵn sàng huy động trong mọi tình huống. Tiềm lực kỹ thuật quân sự là một bộ phận của tiềm lực quốc phòng, bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng, lực lượng, vũ khí, trang bị kỹ thuật, trình độ công nghệ và năng lực bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Việc xây dựng tiềm lực kỹ thuật phải được tiến hành đồng bộ từ thời bình, coi trọng dự trữ vật tư, nhiên liệu, linh kiện chiến lược; quy hoạch hệ thống kho, trạm, xưởng hợp lý, có khả năng cơ động cao; đồng thời, tổ chức mạng lưới bảo đảm kỹ thuật dự bị phục vụ các khu vực phòng thủ.

Đặc biệt, cần kết hợp chặt chẽ giữa đầu tư chiều sâu cho cơ sở vật chất hiện có với đổi mới mô hình quản lý, khai thác, sử dụng trang thiết bị. Mỗi đơn vị kỹ thuật cần được xây dựng vững mạnh, trở thành lực lượng nòng cốt về bảo đảm kỹ thuật trong khu vực, đủ khả năng thực hiện tốt nhiệm vụ thường xuyên và chủ động mở rộng hoạt động khi có tình huống quốc phòng - an ninh. Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế dự phòng chiến lược, phát triển mạng lưới kỹ thuật khu vực và tăng cường hợp tác quốc tế về bảo đảm kỹ thuật - nhất là trong lĩnh vực công nghệ sửa chữa, phục hồi vũ khí, trang bị kỹ thuật và vật liệu mới.

Bốn là, chủ động hội nhập quốc tế và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học - công nghệ quân sự giúp Quân đội ta tiếp cận tri thức mới, rút ngắn khoảng cách công nghệ, đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý và tác phong công nghiệp của đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Thực tế lực lượng kỹ sư, kỹ thuật viên chuyên trách trong công tác kỹ thuật có trình độ chuyên sâu, am hiểu công nghệ cao còn ít; mô hình đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn chặt với thực tế sản xuất và khai thác trang bị kỹ thuật.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần xây dựng chiến lược dài hạn về đào tạo nhân lực kỹ thuật quân sự, gắn kết giữa các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu và cơ sở sản xuất quốc phòng; khuyến khích hình thành “hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự”. Cùng với việc mở rộng hợp tác, cần chú trọng đào tạo trong nước theo chuẩn quốc tế, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, giữa kỹ thuật quân sự truyền thống và kỹ thuật số hiện đại. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật “vừa hồng, vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi chuyên môn, tinh thông ngoại ngữ và công nghệ để làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh phong trào nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, tạo môi trường để cán bộ, chiến sĩ phát huy trí tuệ, góp phần làm chủ trang bị và công nghệ hiện đại.

Năm là, đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong tổ chức và bảo đảm kỹ thuật. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, góp phần thay đổi phương thức quản lý, điều hành và khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật. Hiện nay, việc xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về tình trạng trang bị kỹ thuật toàn quân đang triển khai nhưng chưa đồng bộ; công nghệ chẩn đoán kỹ thuật, bảo dưỡng dự báo còn hạn chế. Một số phần mềm quản lý chưa có khả năng tích hợp liên thông giữa các cấp, v.v. Vì vậy, cần triển khai đồng bộ các vấn đề: xây dựng cơ sở dữ liệu số toàn quân về trang bị kỹ thuật; áp dụng công nghệ mô phỏng, trí tuệ nhân tạo trong huấn luyện, bảo dưỡng; phát triển hệ thống điều hành kỹ thuật trực tuyến, liên thông từ Bộ Quốc phòng đến đơn vị cơ sở.

Đặc biệt, cần phát triển các phần mềm “Made in Vietnam” phục vụ công tác kỹ thuật, bảo đảm an toàn thông tin và chủ quyền số trong lĩnh vực quốc phòng. Quá trình đổi mới sáng tạo phải gắn liền với thực tiễn nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và đặt trong định hướng tổng thể xây dựng “hệ sinh thái kỹ thuật thông minh” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phát huy tinh thần tự lực, sáng tạo của cán bộ, nhân viên kỹ thuật; khuyến khích nghiên cứu đề tài, sáng kiến ứng dụng công nghệ mới vào thực tế, từ đó hình thành các mô hình “nhà xưởng thông minh”, “đơn vị kỹ thuật số”, “trạm bảo dưỡng tự động hóa”, v.v.

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc phát huy truyền thống tự lực, sáng tạo, kết hợp khoa học - công nghệ hiện đại với sức mạnh tinh thần Việt Nam là yếu tố quyết định để tổ chức công tác kỹ thuật Quân đội ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

Thiếu tướng, TS. ĐINH CÔNG PHƯƠNG1 -  Đại tá, TS. TRẦN BÌNH TRỌNG2  
_______________________
        

1 - Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật.

2 - Trưởng phòng Khoa học quân sự, Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật.