Những quy định mới của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 liên quan đến người lao động
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có nhiều thay đổi, bên cạnh hướng tới các mục tiêu lớn như: mở rộng đối tượng tham gia; sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; tăng cường chế tài xử lý hành vi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội,.... còn đảm bảo quyền, lợi ích trong thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội để thu hút người lao động tham gia bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội lâu dài theo quy định của Hiến pháp và thể chế hóa các nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW.
Xác định đối tượng tham gia, căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, xử lý chậm đóng, trốn đóng
1. Về đối tượng tham gia (Điều 2)
Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Một trong những yêu cầu cải cách đã xác định trong Nghị quyết số 28-NQ/TW là: “Mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội bắt buộc sang các nhóm đối tượng khác”; “Rà soát, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các nhóm chủ hộ kinh doanh, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý, điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt”.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã thể chế cơ bản Nghị quyết số 28-NQ/TW, quy định mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với:
(1) Chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ.
(2) Người quản lý doanh nghiệp, kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty và công ty mẹ theo quy định của Luật Doanh nghiệp; thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc, thành viên Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên và các chức danh quản lý khác được bầu của Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã không hưởng tiền lương.
(3) Người lao động làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất.
(4) Trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên,...
(5) Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố.
(6) Dân quân thường trực.
(7) Mở rộng quyền lợi đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc thay vì chỉ đóng và hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật hiện hành.
Bên cạnh đó, nhằm từng bước hướng tới chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với toàn bộ người lao động có việc làm, có thu nhập và tiền lương khi đáp ứng đủ điều kiện cần thiết theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với đối tượng khác mà có việc làm, thu nhập ổn định, thường xuyên trên cơ sở đề xuất của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Quy định này tạo điều kiện cho việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với các nhóm đối tượng khác phù hợp với sự thay đổi của quan hệ lao động, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, đời sống của người lao động trong tương lai.
Việc bổ sung quy định trên phù hợp với những quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, góp phần tạo điều kiện cho nhiều người lao động được bảo đảm quyền được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và thụ hưởng đầy đủ chính sách bảo hiểm xã hội.
Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội: Bổ sung đối tượng đang tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận về việc đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong thời gian này.
2. Về căn cứ đóng bảo hiểm xã hội (Điều 31)
2.1. Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
Thấp nhất bằng mức tham chiếu và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
Về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc khu vực nhà nước: Cơ bản giữ như hiện hành.
Về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với khu vực ngoài nhà nước (do người sử dụng lao động quyết định) là tiền lương tháng, bao gồm mức lương, phụ cấp lương, các khoản bổ sung khác, được trả thường xuyên và ổn định trong mỗi kỳ trả lương.
Một số đối tượng mới bổ sung có tiền lương và không có tiền lương (chủ hộ kinh doanh, người quản lý điều hành không hưởng lương, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, phu nhân, phu quân) được lựa chọn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong khoảng từ mức thấp nhất đến mức cao nhất (sau ít nhất 12 tháng thực hiện đóng theo căn cứ đã lựa chọn thì người lao động được lựa chọn lại).
2.2. Thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện
Mức thu nhập làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện giữ như quy định hiện hành (chỉ thay mức lương cơ sở bằng mức tham chiếu), thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức tham chiếu tại thời điểm đóng.
3. Bổ sung quy định xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội
Điều 35. Đôn đốc thực hiện trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
Điều 38, 39: Chậm đóng, trốn đóng.
Điều 40, 41: Biện pháp xử lý.
Vấn đề chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, do vậy Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã bổ sung quy định trách nhiệm của các cơ quan trong xác định và quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội; quy định cụ thể hành vi chậm đóng, hành vi trốn đóng; đồng thời, đã sửa đổi, bổ sung nhiều biện pháp xử lý, chế tài xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội như:
3.1. (Điều 38) Chậm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp là hành vi của người sử dụng lao động
(i) Chưa đóng hoặc đóng chưa đầy đủ số tiền phải đóng theo hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đã đăng ký kể từ sau ngày đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất, trừ trường hợp quy định tại Điểm đ và Điểm e Khoản 1 Điều 39 của Luật này.
(ii) Không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định.
(iii) Thuộc trường hợp không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 39 của Luật này (có lý do chính đáng).
3.2. (Điều 39) Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp là hành vi của người sử dụng lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây để không đóng hoặc đóng không đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động
(i) Sau 60 ngày kể từ ngày hết thời hạn quy định mà người sử dụng lao động không đăng ký hoặc đăng ký không đầy đủ số người phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
(ii) Đăng ký tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp thấp hơn quy định.
(iii) Không đóng hoặc đóng không đầy đủ số tiền đã đăng ký bảo hiểm xã hội bắt buộc sau 60 ngày kể từ ngày đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc chậm nhất, bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất và đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc theo quy định tại Điều 35 của Luật này.
(iv) Các trường hợp khác bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Chính phủ.
Tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 đã giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 39 về trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và quy định các trường hợp thuộc trốn đóng nhưng có lý do chính đáng thì không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.
3.3. (Điều 40, 41) Quy định cụ thể biện pháp xử lý đối với hành vi chậm đóng bảo hiểm xã hội và trốn đóng bảo hiểm xã hội
Bắt buộc đóng đủ số tiền bảo hiểm xã hội chậm đóng, trốn đóng; nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chậm đóng, trốn đóng và số ngày chậm đóng, trốn đóng; xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; không xem xét trao tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng. Riêng đối với hành vi trốn đóng còn có biện pháp mạnh là truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của người lao động, Luật đã bổ sung trách nhiệm của người sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động theo quy định của pháp luật nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc mà gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động (Khoản 8 Điều 13).
Các quy định này nhằm bảo đảm hơn nữa quyền lợi chính đáng, hợp pháp của người lao động, góp phần giảm tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội./.
BẢO HIỂM XÃ HỘI QUÂN ĐỘI
