“Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” là một phương thức bảo vệ Tổ quốc đã trở thành truyền thống của dân tộc, nhằm “giữ nước từ lúc nước chưa nguy”. Tinh thần đó tiếp tục được Đại hội XIII của Đảng kế thừa, vận dụng với nhiều giải pháp chiến lược đồng bộ và toàn diện.
Vấn đề “ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh xung đột từ sớm, từ xa” lần đầu tiên được Đảng Cộng sản Việt Nam đưa vào Văn kiện chính thức của Đại hội XII, khi nhấn mạnh: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”1. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định tinh thần đó không chỉ một lần, mà còn nhấn mạnh: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến”2 và “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”3. Việc nhấn mạnh đến hai lần tinh thần đó đã khẳng định quyết tâm và chủ trương nhất quán của Đảng là kiên quyết và kiên trì bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa một cách chủ động, nhưng không nhất thiết phải tiến hành chiến tranh, xem đó là “thượng sách” để giữ nước.
Điểm mới so với Đại hội XII là Đại hội XIII không đơn thuần khẳng định lại quan điểm của Đại hội XII, mà còn diễn giải quan điểm đó qua những luận điểm cụ thể, với sự nhấn mạnh tinh thần “chủ động”. Đó là “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; “Phải chuyển mạnh sang việc “chủ động phòng ngừa” là chính; phải “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”4; phải “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống”5. Nếu Đại hội XII nhấn mạnh đến “các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”6, thì Đại hội XIII không loại trừ “nhân tố bên ngoài”, khi nhấn mạnh “nhất là các nhân tố có thể gây đột biến” bao gồm cả “nhân tố bên trong” và “nhân tố bên ngoài”. Điều này cho thấy sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về sự chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình quốc tế có nhiều biến động, khó dự báo; đất nước đã hội nhập quốc tế sâu, rộng, nên đứng trước không chỉ những vận hội lớn để phát triển, mà sẽ còn phải đương đầu với các thách thức gay gắt, những “nhân tố bên ngoài” có thể gây đột biến, dẫn đến nguy cơ bùng nổ xung đột, chiến tranh.
Việc Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng, gửi đi thông điệp hòa bình, thể hiện khát vọng mong muốn hòa bình của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã phải trải qua các cuộc chiến tranh với nhiều đau thương, mất mát để có được nền độc lập như ngày nay. Dân tộc đó không cần chiến tranh, mà cần một môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đồng thời, có ý nghĩa chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nỗ lực phấn đấu hiện thực hóa chủ trương “giữ cho trong ấm, ngoài yên” để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ lúc đất nước còn chưa nguy, bằng những giải pháp đồng bộ, toàn diện; trọng tâm là:
Thứ nhất, tập trung xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt, theo tinh thần “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”7. Đó chính là xây dựng yếu tố nội lực, bên trong đủ khả năng ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Thực hiện yêu cầu đó, Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh: “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”8; phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu đến năm 2025: đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh đủ mạnh, thế trận quốc phòng và an ninh vững chắc ngay từ thời bình để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Về tiềm lực, Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh việc “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”9. Điểm mới so với Đại hội XII ở chỗ: Đại hội XIII cụ thể hóa phương châm “từng bước hiện đại” bằng chủ trương xây dựng “một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại” trong giai đoạn 2021 - 2030, phấn đấu từ năm 2030 sẽ “xây dựng quân đội hiện đại”, chứ không còn là “ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng”10 như trước. Bước đi đó hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư và phù hợp với tiềm lực kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới. Cùng với đó, Đại hội XIII chủ trương “Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội”11 nhằm tự đảm bảo một phần quan trọng vũ khí, trang bị kỹ thuật cho Quân đội và Công an thực hiện nhiệm vụ. Về thế trận, Đại hội XIII yêu cầu tập trung xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; trong đó, coi trọng việc phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”. Đồng thời, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực, các vùng, miền, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch. Theo đó, phải kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại trong quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân; chăm lo “xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo”.
Thứ ba, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, nhằm tăng đối tác, giảm đối tượng, thêm bạn, bớt thù đối với cách mạng Việt Nam. Đây cũng là một phương thức chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa có hiệu quả. Thực tiễn cho thấy, công tác đối ngoại, hoạt động ngoại giao có vai trò ngày càng lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thông qua các hoạt động đối ngoại, chúng ta có thể làm cho bạn bè trên thế giới hiểu rõ khát vọng hòa bình của dân tộc ta, hiểu rõ chủ trương, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân của nhân dân ta là nền quốc phòng với mục đích tự vệ. Qua đó, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta liên quan đến hoạt động đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Việc thực hiện tốt công tác đối ngoại sẽ kịp thời tháo gỡ những căng thẳng có nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh. Mặt khác, thông qua hoạt động đối ngoại với phương châm “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”12, còn giúp chúng ta tạo thế đan cài lợi ích, tăng độ tin cậy với các nước; qua đó, có thể sớm nắm bắt được tình hình liên quan đến quốc phòng, an ninh của đất nước để chủ động dự báo, tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước có đối sách và biện pháp xử lý các tình huống một cách phù hợp, hiệu quả.
Trong thời gian tới, để chủ động phòng ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, Đại hội XIII chủ trương “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương”13; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng, an ninh, “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.
Thứ tư, nâng cao năng lực dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh, đối ngoại để tham mưu chính xác cho Đảng, Nhà nước sớm có đối sách chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Việc dự báo chính xác tình hình sẽ góp phần quan trọng để các cơ quan chiến lược tham mưu với Đảng, Nhà nước có các biện pháp giữ thế chủ động chiến lược, hóa giải những nguy cơ bùng nổ thành xung đột, chiến tranh. Đây là một biện pháp cực kỳ quan trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay có nhiều biến động, bất trắc, khó dự báo. Điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chiến lược của Quân đội, Công an và Ngoại giao trong nghiên cứu, nắm chắc âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, các tình huống chiến lược có thể xảy ra để tham mưu chính xác cho Đảng, Nhà nước có đối sách thích hợp, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo; nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, chủ động thích ứng trước tình hình biến động trên thế giới và trong nước của đội ngũ cán bộ làm công tác dự báo chiến lược. Đồng thời, có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh ngoại giao và cơ quan đối ngoại của cả ba trụ cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân.
“Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” là kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ lúc đất nước chưa nguy có hiệu quả. Quan điểm này của Đại hội XIII cần được quán triệt sâu sắc đến các cấp, các ngành, mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để biến thành các hành động cụ thể, thiết thực trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
NGUYỄN NGỌC HỒI
_________________
1 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 117.
3 - Sđd, Tập I, tr. 156.
4 - Sđd, Tập I, tr. 156 -157.
5 - Sđd, Tập I, tr. 159.
6 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
7 - ĐCSVN – Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb CTQG, H. 2013, tr. 169.
8 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 110.
9 - Sđd, Tập I, tr. 157 -158.
10 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.
11 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 158 -159.
12 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG, H. 2021, tr. 110.
13 - Sđd, Tập I, tr. 162.