Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống

Bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình - chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam

3/5/2020 4:36:11 PM

Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ quy luật và xuất phát từ truyền thống của dân tộc, kinh nghiệm, luật pháp quốc tế, việc bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình, tạo môi trường thuận lợi xây dựng đất nước là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.

Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó cần và phải sử dụng nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp bạo lực (gồm bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang), phương pháp hòa bình và sự kết hợp của hai phương pháp này.

Phương châm bảo vệ Tổ quốc được Đảng xác định là: đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các bất đồng, tranh chấp với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.

Đảng ta khẳng định: “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc”1. Theo đó, bảo vệ Tổ quốc không nhất thiết phải tiến hành chiến tranh hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh, mà bảo vệ Tổ quốc tối ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm là luôn nắm chắc, dự báo được tình hình, đưa ra các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với nguy cơ chiến tranh chủ động, tích cực và hiệu quả. Bảo vệ Tổ quốc từ xa không chỉ xét về mặt không gian - địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị bảo vệ Tổ quốc ngay từ khi Tổ quốc đang hòa bình, phát triển; ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng là sự kế thừa, phát triển tư tưởng truyền thống giữ nước của ông cha ta: “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Đồng thời, thể hiện tư duy mới của Đảng về phương thức, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đó chính là việc chủ động phòng ngừa, chuẩn bị các điều kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc ngay từ khi đất nước còn chưa nguy. Do vậy, cần phải: “Có kế sách ngăn chặn các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu những nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây đột biến”2.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều chứng tỏ bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình là xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Điều này được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:

Hòa bình luôn là phương pháp được ưu tiên hàng đầu trong các phương pháp được lựa chọn. Kế thừa truyền thống của dân tộc: “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, trong lãnh đạo bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn chủ trương ưu tiên cho phương pháp hòa bình. Bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp bạo lực cách mạng là một tất yếu khách quan và vô cùng cần thiết, nhưng chỉ được lựa chọn khi phương pháp hòa bình không đạt được kết quả như mong muốn, hoặc trong những trường hợp không có sự lựa chọn nào khác. Thực tiễn minh chứng, sau Cánh mạng Tháng Tám năm 1945, thực dân Pháp được sự tiếp tay của các nước đế quốc đồng minh trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chúng đơn phương xóa bỏ mọi cam kết, không thi hành Hiệp định Sơ bộ ngày 06-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946, tăng cường các hoạt động quân sự, phá hoại nền hòa bình của nhân dân ta. Trong thời khắc Tổ quốc lâm nguy, tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ,...”3. Hưởng ứng Lời kêu gọi của Người, toàn thể dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành thắng lợi đem lại cuộc sống hòa bình cho miền Bắc và tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam từ năm 1954 đến 1975.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 một lần nữa khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam: “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, “không tham gia liên minh quân sự” vì chủ trương nhất quán của Việt Nam là thêm bạn, bớt thù. Như vậy, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta mang tính chất hòa bình, tự vệ nhằm giữ vững môi trường hòa bình để phát triển bền vững đất nước.

Giữ vững nguyên tắc giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Nhận thức rõ lợi ích của phương pháp hòa bình, Việt Nam chủ trương: “giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”4. Phương pháp hòa bình có nhiều biện pháp thực hiện khác nhau. Do đó, cần sáng suốt lựa chọn các giải pháp phù hợp nhất, sao cho mọi bất đồng, tranh chấp đều được giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc công bằng. Hòa bình nhưng phải bảo đảm lợi ích tối thượng của dân tộc, phải giữ vững được độc lập, tự chủ của Tổ quốc. Trên thế giới, đàm phán là giải pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết các bất đồng hoặc tranh chấp với nhau, với mục tiêu thu hẹp bất đồng, ngăn chặn xung đột, gia tăng hợp tác. Việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình có vai trò rất quan trọng, góp phần ổn định quan hệ quốc tế và bảo vệ nền hòa bình, an ninh thế giới, tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển. Ở Việt Nam, Đảng ta đã nhiều lần sử dụng rất thành công các cuộc đàm phán trong giải quyết bất đồng, tranh chấp với các nước có liên quan để bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, như: đàm phán với Pháp tại Hội nghị Giơ-ne-vơ (1954), đàm phán ký Hiệp định Hòa bình Pa-ri (1973) với Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Thực tiễn giải quyết những bất đồng, tranh chấp với các nước mà Việt Nam là một bên liên quan, từ trước đến nay, chúng ta luôn xác định đàm phán là một giải pháp ưu tiên. Từ khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ các tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN, ngày 18-3-1995 Việt Nam khẳng định: “mọi tranh chấp chủ quyền đối với các quần đảo ngoài Biển Đông cần phải được giải quyết thông qua thương lượng hòa bình; kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, cam kết không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực”. Đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn thể hiện lập trường thông qua thỏa thuận giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước ngày 19-10-1993 tại Hà Nội, với những nguyên tắc cơ bản: (1). Thông qua thương lượng giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ giữa hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình. (2). Hai bên căn cứ vào tiêu chuẩn và nguyên tắc luật pháp quốc tế được công nhận và tham khảo thực tiễn quốc tế để giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ.

Hòa bình là phương pháp tối ưu, hiệu quả nhất để bảo vệ Tổ quốc. Đàm phán quốc tế trong giải quyết bất đồng, tranh chấp quốc tế là một giải pháp lâu đời, được áp dụng phổ biến và hiệu quả nhất. Bởi, đó là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên bất đồng, tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề bất đồng, tranh chấp, cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Mặt khác, giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng đàm phán sẽ hạn chế được sự can thiệp từ bên ngoài, có khả năng làm phức tạp thêm vụ việc bất đồng, tranh chấp. Bởi vậy, đàm phán, giải quyết bất đồng là biện pháp tối ưu, hiệu quả, tránh đổ máu của người lính trên chiến trường, giữ vững môi trường thuận lợi để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trước nguy cơ chiến tranh.

Hòa bình phải dựa trên nền tảng tiềm lực và được bảo đảm bởi sức mạnh tổng hợp về vật chất và tinh thần của quốc gia. Là dân tộc phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược, dân tộc ta đã thấu hiểu giá trị cao cả của hòa bình. Nhưng hòa bình thật sự không tự đến, không tự có, mà nó là kết quả của sự đấu tranh kiên quyết, kiên trì của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhất quán lựa chọn phương pháp hòa bình trong bảo vệ Tổ quốc, nhưng Đảng, Nhà nước ta không bao giờ ảo tưởng, mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Để giải pháp hòa bình được thực hiện hiệu quả, Đảng ta khẳng định: cần tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân. Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Tăng cường nguồn lực cho quốc phòng, an ninh. Tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho Quân đội và Công an đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng, củng cố đường biên giới trên bộ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; nâng cao năng lực thực thi pháp luật của các lực lượng làm nhiệm vụ ở biên giới, biển, đảo. Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống, v.v.

Không dựa trên nền tảng sức mạnh tổng hợp và không có sự kết hợp của những phương pháp khác trong bảo vệ Tổ quốc thì phương pháp hòa bình sẽ trở nên phi thực tế, không mang lại hiệu quả, thậm chí phản tác dụng. Bởi: “Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dẫu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”5. Cho nên, trong khi bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình thì các cấp, ngành, lực lượng phải tranh thủ môi trường hòa bình để đẩy mạnh xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ Tổ quốc bằng biện pháp hòa bình như chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.

PGS, TS. PHAN TRỌNG HÀO, Hội đồng Lý luận Trung ương
_________________
       

1 - Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương - Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 46.

2 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 149.

3 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 534.

4 - ĐCSVN – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 148.

5 - ĐCSVN – Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb. CTQG, H. 2000, tr. 244.