Công tác phối hợp giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương trong nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng

11/18/2024 7:23:05 AM

Lý luận về quân sự, quốc phòng là nội dung rất quan trọng trong đường lối cách mạng của Đảng, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đặc biệt quan tâm. Thấm nhuần quan điểm của V.I. Lênin “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”1, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế”2 và “không hiểu lý luận thì như người mù đi đêm”3. Quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò tiên phong của lý luận cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, chăm lo công tác nghiên cứu, phát triển lý luận, trong đó có lý luận quân sự, quốc phòng nhằm cung cấp cơ sở khoa học để hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kỳ cách mạng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng và yêu cầu khách quan, cấp thiết của công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng trong điều kiện mới, từ năm 2018 đến nay, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương đã quán triệt và phát huy chức năng, nhiệm vụ của mình, vừa thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, vừa đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, phối hợp nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng đạt được nhiều kết quả rất quan trọng.

Nhìn lại công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương sau gần 40 năm đổi mới, nhất là qua sáu năm thực hiện Chương trình phối hợp nghiên cứu giữa hai cơ quan4, nhiều kết quả nghiên cứu đã được chắt lọc, đúc kết góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong hoạch định chủ trương, đường lối về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Đến nay, Đảng ta đã có một hệ thống lý luận cơ bản về quân sự, quốc phòng, làm cơ sở định hướng cho việc tổ chức thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là đã luận giải toàn diện, đồng bộ, rất cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, sức mạnh, lực lượng, tư tưởng, phương châm, nguyên tắc, phương thức bảo vệ Tổ quốc và mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; về đối tác, đối tượng; về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội và nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; về mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, lực lượng, thời gian, không gian, phương thức bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, gắn với xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; về lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về xây dựng nhân tố chính trị, tinh thần trong Quân đội; chuẩn mực “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; về khu vực phòng thủ và phòng thủ dân sự; những vấn đề về an ninh truyền thống và phi truyền thống với tác động, ảnh hưởng của nó trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm qua, thực hiện nội dung phối hợp giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương trong nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, hai cơ quan đã phối hợp biên soạn được 14 chuyên đề phục vụ Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội XIII của Đảng, tiến tới Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội XIV của Đảng. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã tham mưu với Hội đồng Lý luận Trung ương giao cho các cơ quan, đơn vị trong Quân đội chủ trì 04 đề tài trong Chương trình KX.04 nghiên cứu khoa học lý luận chính trị trọng điểm đặc biệt cấp quốc gia. Đã phối hợp tổ chức 24 cuộc khảo sát thực tiễn tại các cơ quan, đơn vị Quân đội; tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, tọa đàm, trao đổi khoa học thẳng thắn, trách nhiệm chính trị cao để đưa ra những kết quả trong tổng kết thực tiễn, nghiên cứu những nội dung lý luận mới về quân sự, quốc phòng trong tình hình mới. Riêng năm 2023, đã phối hợp tổ chức thành công Hội nghị trao đổi công tác nghiên cứu khoa học lý luận trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội thảo khoa học cấp quốc gia với chủ đề “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam tinh, gọn, mạnh - Giá trị, ý nghĩa và định hướng”, tọa đàm khoa học: Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo hình thức vừa trực tiếp, vừa trực tuyến tại điểm cầu của Bộ Quốc phòng với 130 đại biểu và 41 điểm cầu trong toàn quân với 1.600 đại biểu tham gia.

Tổng cục Chính trị và Hội đồng lý luận Trung ương tổ chức Hội nghị trao đổi công tác nghiên cứu khoa học lý luận chính trị trong QĐND Việt Nam. Ảnh: qdnd.vn

Hai cơ quan đã phối hợp chặt chẽ trong việc nghiên cứu, xây dựng, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương đã xây dựng chương trình, kế hoạch hàng năm tổ chức đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học làm cơ sở bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng; đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn chống phá Quân đội, lực lượng vũ trang, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng nói chung, trong Quân đội nói riêng. Ban Chỉ đạo 35, lực lượng chủ công của hai cơ quan, nhất là của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã thực hiện tốt việc tổ chức, quản lý và định hướng thông tin, tăng cường thông tin tích cực; nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài Quân đội đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, cuộc đời, sự nghiệp, nhân cách, đạo đức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lãnh tụ của Đảng, anh hùng dân tộc, các nhà lãnh đạo tiền bối của cách mạng Việt Nam.

Hai bên chủ động đổi mới phương thức, cách làm trong phối hợp xác định nội dung, luận cứ, luận điểm, đặc biệt đã cử những chuyên gia có kinh nghiệm và chuyên môn sâu của Hội đồng Lý luận Trung ương nói chuyện thời sự, thông tin chuyên đề mới đối với các cơ quan, đơn vị, nhà trường trong Quân đội và tham gia tập huấn cho đội ngũ giáo viên/giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường Quân đội5.

Từ những kết quả phối hợp nghiên cứu lý luận, thực tiễn về quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hai cơ quan đã tham mưu, tư vấn cho Quân ủy Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị đề xuất xây dựng các báo cáo chuyên đề phục vụ trực tiếp xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Đại hội XIII của Đảng; phục vụ tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và đề xuất ban hành Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; ban hành và triển khai thực hiện đồng bộ Chiến lược quân sự Việt Nam, Chiến lược quốc phòng Việt Nam, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược phát triển ngành cơ yếu Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về quân sự, quốc phòng, v.v. Đây cũng là một nguồn tư liệu cung cấp luận cứ khoa học rất quan trọng cho việc tổng kết 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 50 năm đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và là một nguồn tư liệu phục vụ xây dựng văn kiện Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội XIV của Đảng trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng.

Từ thực tiễn công tác phối hợp nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Thứ nhất, phát huy tốt thế mạnh của từng cơ quan, chọn đúng vấn đề, nắm chắc tình hình và chú trọng công tác tổng kết thực tiễn, phân tích, dự báo. Trên cơ sở đó, lựa chọn các vấn đề đưa vào Chương trình phối hợp nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, v.v. Nhờ vậy, các kết quả đóng góp trong phối hợp nghiên cứu là trúng và có giá trị lý luận, thực tiễn cao.

Thứ hai, hai cơ quan đã chủ động, sáng tạo trong quá trình tổ chức thực hiện, nhất là phát huy vai trò của các đồng chí đứng đầu và các bộ phận tham mưu, giúp việc. Do đó, đã bảo đảm thực hiện đúng tiến độ, chất lượng và yêu cầu của chương trình phối hợp nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng đề ra.

Thứ ba, trong quá trình thực hiện, luôn nhận được sự lãnh đạo về mọi mặt của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là sự chỉ đạo sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư đối với Quân ủy Trung ương và Hội đồng Lý luận Trung ương; sự quan tâm sát sao, chỉ đạo thường xuyên và có hiệu quả của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Hội đồng lý luận Trung ương và Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đối với mọi công việc; sự nỗ lực với tinh thần trách nhiệm rất cao của các đồng chí được phân công tổ chức thực hiện.

Trong những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển được xác định vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến thay đổi hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; các mâu thuẫn cơ bản của thời đại tiếp tục tồn tại và phát triển, đồng thời xuất hiện những mâu thuẫn mới. Chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra nhưng cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt hơn. Cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; các nước lớn vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau và can dự, chi phối vào nội bộ các nước khác, v.v. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tạo ra thời cơ và đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, trong đó có Đông Nam Á tiếp tục phát triển năng động nhưng cũng là khu vực trọng điểm của cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhiều điểm nóng an ninh phức tạp. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo nhất là trên biển Đông diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Việc giải quyết các tồn đọng ở một số khu vực trên biên giới đất liền và phân định vùng nước lịch sử trên biển giữa Việt Nam và Campuchia còn nhiều bất cập.

Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao. Tuy nhiên, đất nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức; bốn nguy cơ vẫn tồn tại, có mặt đã tích cực, giảm thiểu, song cũng có mặt sẽ diễn biến phức tạp hơn; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động “diễn biến hòa bình” với âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng công khai, trực diện hơn. Nhiệm vụ xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đứng trước các yêu cầu bổ sung, phát triển mới.

Bối cảnh, tình hình mới đặt ra những vấn đề mới đối với công tác nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa kết quả đã đạt được, quán triệt sâu sắc đặc điểm tình hình mới, công tác phối hợp trong nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương thời gian tới cần quan tâm thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, nhận thức rõ và đầy đủ về nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng, an ninh, nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự Việt Nam, nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh xã hội trong tình hình mới theo tinh thần của Văn kiện Đại hội XIII, nhất là Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đặc biệt, chú trọng nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ. Phối hợp nắm chắc bối cảnh và diễn biến của tình hình, nghiên cứu làm sâu sắc hơn các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, phương châm, nguyên tắc, chủ trương, giải pháp chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, góp phần cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn để tham mưu cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Hội đồng Lý luận Trung ương đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hai , tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả những nội dung, nhiệm vụ đã xác định trong Chương trình, Kế hoạch phối hợp nghiên cứu lý luận - thực tiễn về quân sự, quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương giai đoạn 2021 - 2026. Trọng tâm là xây dựng các chuyên đề6; kiểm tra, đôn đốc thực hiện bảo đảm tiến độ, có chất lượng các đề tài trong Chương trình KX.04 cấp nhà nước về nghiên cứu khoa học lý luận chính trị về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thiện các báo cáo kiến nghị bổ sung vào tổng kết 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 50 năm đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng trên lĩnh vực quân sự, quốc phòng.

Tiếp tục phối hợp xây dựng các chuyên đề, bài viết phục vụ công tác giáo dục khoa học xã hội và nhân văn trong Quân đội, góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận quân sự Việt Nam; tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội. Chủ động phối hợp chặt chẽ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là những vấn đề cụ thể, mới nảy sinh. Hội đồng Lý luận Trung ương sẽ đề xuất các nhiệm vụ, chuyên đề nhằm xây dựng hệ thống luận cứ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; Tổng cục Chính trị phát huy vai trò hoạt động rất hiệu quả của Ban Chỉ đạo 35 Quân ủy Trung ương, lực lượng nòng cốt, xây dựng luận cứ; đồng thời, chủ động phối hợp với Bộ Công an sớm phát hiện, ngăn chặn và đề xuất các biện pháp xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm theo quy định của luật. Hai cơ quan tiếp tục phối hợp trao đổi thông tin chuyên đề, trao đổi học thuật và nói chuyện thời sự về những nội dung cùng quan tâm.

Ba là, tiếp tục phối hợp phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng. Thời gian tới, cần đẩy mạnh phối hợp trong toàn quân và cả hệ thống chính trị về tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, trước hết là các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các cơ quan chiến lược, các trung tâm nghiên cứu, các cơ sở đào tạo trong và ngoài Quân đội. Đây là những cơ quan, lực lượng có chức năng, nhiệm vụ tổ chức tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận về từng lĩnh vực quân sự, quốc phòng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, v.v. Trong Quân đội là: Viện Chiến lược Quốc phòng, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Viện Lịch sử quân sự, Học viện Quốc phòng, Học viện Lục quân; các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, một số học viện, nhà trường Quân đội. Sự tham gia của các tổ chức, lực lượng này sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng. Do đó, cần có giải pháp, cách thức để huy động, phát huy tốt vai trò, tính năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ khoa học quân sự, khoa học lý luận quân sự, quốc phòng, các chuyên gia đầu ngành; nâng cao trình độ nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, năng lực phân tích, dự báo, tham mưu, đề xuất phát triển lý luận mới. Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, đãi ngộ thỏa đáng về vật chất và tinh thần cho các nhà khoa học nhằm thu hút nhân tài tham gia, cống hiến cho lĩnh vực này.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, thủ trưởng Tổng cục Chính trị và Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương đối với công tác phối hợp nghiên cứu, phát triển lý luận về quân sự, quốc phòng. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng hai cơ quan cần tiếp tục quan tâm lãnh đạo toàn diện công tác nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn về quân sự, quốc phòng. Phân công tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học, phát huy vai trò, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ, tạo bầu không khí dân chủ, môi trường làm việc khoa học, thuận lợi, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ thể hiện năng lực, trí tuệ, sức sáng tạo trong thực hiện nghiên cứu, tích cực bám sát thực tiễn, nâng cao khả năng phát hiện, mạnh dạn tham mưu, đề xuất những vấn đề mới để bổ sung, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Năm là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, động viên, khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân có thành tích cao trong nghiên cứu khoa học, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng. Thực hiện tốt việc đầu tư cơ sở vật chất, tài chính, thường xuyên bảo đảm thông tin, tư liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, phát triển lý luận quân sự, quốc phòng trong tình hình mới.

Trong những năm qua, Tổng Cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng lý luận Trung ương đã phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, đạt được nhiều kết quả tích cực, có mặt khá nổi bật. Trên cơ sở các kết quả này, nhất là các bài học kinh nghiệm đã có, dưới sự chỉ đạo sâu sát, thường xuyên hơn của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Hội đồng lý luận Trung ương và Tổng cục Chính trị, chúng ta tin tưởng rằng công tác phối hợp giữa hai cơ quan sẽ đạt kết quả tốt hơn với nhiều sản phẩm có giá trị lý luận và thực tiễn, góp phần cung cấp cơ sở khoa học để tham mưu, tư vấn cho Quân ủy Trung ương, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Bí thư, Bộ Chính trị trong hoạch định, hoàn thiện, phát triển đường lối, chính sách về quân sự, quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

GS, TS. NGUYỄN XUÂN THẮNG, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
_____________
___

1 - V.I. Lê-nin – Toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2005, tr. 30.

2 - Hồ Chí Minh – Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 273.

3 - Sđd, Tập 8,  tr. 276.

4 - Chương trình số 1119/Ctr-TCCTQĐNDVN-HĐLLTW, ngày 16/7/2018, Chương trình phối hợp nghiên cứu lý luận - thực tiễn về quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương giai đoạn 2018 - 2021; Chương trình số 1721/Ctr-TCCTQĐNDVN-HĐLLTW, ngày 04/10/2021, Chương trình phối hợp nghiên cứu lý luận - thực tiễn về quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giữa Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Hội đồng Lý luận Trung ương giai đoạn 2021 - 2026.

5 - Chuyên đề: Cục diện thế giới và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam (năm 2019); Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo cương lĩnh của Đảng (năm 2019); Một số vấn đề cơ bản trong chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2020); Tình hình thế giới, khu vực hiện nay - cơ hội và thách thức đổi với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc (năm 2021); Những phát triển mới về lý luận trong dự thảo các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2021); Một số vấn đề về lý luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (năm 2022); Chiến lược bảo vệ Tổ quốc: Yêu cầu và nhiệm vụ, giải pháp trong tình hình mới (năm 2024); Những phát triển mới về tư duy lý luận, thực tiễn quân sự, quốc phòng của Đảng trong bối cảnh thế giới đang chuyển đổi (năm 2024).

6 - “Tiềm lực quốc phòng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”; “Phát triển nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; “Nhận rõ các quan điểm sai trái thù địch trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay”; “Thực trạng và kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu lý luận về quân sự, quốc phòng”; “Đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc”.