Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng xác định: văn hóa là nguồn lực nội sinh, động lực phát triển, đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và môi trường. Điều này thể hiện quan điểm và cách tiếp cận mới, với những mục tiêu, dự báo thách thức và giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn văn hóa trong kỷ nguyên mới.
![]() |
| Đảng ta luôn chú trọng xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Ảnh minh họa |
Tư duy mới và tầm nhìn chiến lược về phát triển văn hóa Việt Nam
Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV, Đảng ta đã tạo ra một “bước nhảy vọt” về tư duy mới khi khẳng định: văn hóa không chỉ là nền tảng đời sống tinh thần xã hội mà còn được xác định như một nguồn lực nội sinh, động lực bền vững để thúc đẩy phát triển đất nước. Bản Dự thảo dành riêng một phần (Phần V. Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam), thể hiện rõ quan điểm đưa văn hóa lên ngang tầm với các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường.
Điểm mới nổi bật là Dự thảo kết hợp hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người như một hệ thống đồng bộ để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Dự thảo viết: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam”1; đồng thời, khẳng định vai trò của con người - chủ thể sáng tạo là then chốt của mọi khâu then chốt trong phát triển văn hóa. Từ đó đặt yêu cầu phát huy bản sắc, giá trị nội sinh lên vị trí trung tâm.
Tư duy mới này phản ánh nhận thức của Đảng về việc văn hóa không chỉ là mục tiêu mà là động lực, “soi đường cho quốc dân đi” trong kỷ nguyên hội nhập và cạnh tranh toàn cầu.
Cách tiếp cận và điểm mới về phát triển văn hóa Việt Nam
Phân tích các khía cạnh mới và cách tiếp cận của dự thảo Báo cáo chính trị, có thể thấy, mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam được xác định rõ ràng và mang định hướng chiến lược: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa thực sự trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển nhanh và bền vững của đất nước; trong đó, “Phát triển mạnh công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của Nhân dân”2.
So với các đại hội trước, Dự thảo bổ sung quan điểm phải phát triển “toàn diện” văn hóa - không chỉ duy trì các giá trị truyền thống mà còn sáng tạo, thích ứng với thời đại để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và biến đổi toàn cầu sâu sắc. Dự thảo gắn mục tiêu phát triển văn hóa với phát triển con người toàn diện, nâng cao đời sống tinh thần, đồng thời nhấn mạnh phát huy văn hóa trong các lĩnh vực kinh tế: phát triển ngành công nghiệp văn hóa nhưng không đặt nặng lợi nhuận mà đề cao và lan tỏa giá trị và chuẩn mực ứng xử văn hóa trong xã hội. Mục tiêu đặt ra là xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; văn hóa trở thành động lực nội sinh, gắn với con người; văn hóa tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhằm phục vụ phát triển bền vững, nâng cao uy tín, vị thế quốc gia.
Dự thảo xác định rõ đối tượng trung tâm để phát triển nền văn hóa là con người Việt Nam, toàn dân, từ các tầng lớp Nhân dân, các dân tộc và thế hệ trẻ nhằm “Phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ, ý thức dân tộc, trách nhiệm công dân, năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp”3. Văn hóa cần gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội, trở thành nhu cầu, quyền hưởng thụ, đồng thời có trách nhiệm sáng tạo, giữ gìn văn hóa của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Dự thảo đặc biệt nhấn mạnh tới các vùng, miền khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa nhằm thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền và tầng lớp. Bên cạnh đó, trong quá trình hội nhập quốc tế, Dự thảo chỉ ra việc chú trọng đến thế hệ trẻ - lực lượng tiếp nhận và sáng tạo các giá trị văn hóa mới cần phải là đối tượng trọng tâm trong nghiên cứu, giảng dạy, truyền thông, công nghệ số để kết nối văn hóa truyền thống với xu hướng hội nhập quốc tế. Như vậy, đối tượng cần tập trung không phải là một nhóm hẹp mà là mọi người dân, trong đó ưu tiên hỗ trợ vùng khó khăn, dân tộc thiểu số, thanh niên, với mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045 đạt mức đồng đều hơn trong văn hóa và nâng cao chất lượng văn hóa toàn dân.
Chủ thể phát triển văn hóa theo Dự thảo chính là Nhân dân, cộng đồng dân cư, các tổ chức chính trị - xã hội, các thiết chế văn hóa, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và đặc biệt là Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị - với vai trò lãnh đạo, định hướng, hỗ trợ và bảo đảm hành lang thể chế cho hoạt động văn hóa, nhất là văn hóa chính trị. Trong quan điểm mới của Đảng, chủ thể dân chủ được nhấn mạnh: người dân không chỉ là người thụ hưởng mà là lực lượng tham gia, phản biện, sáng tạo văn hóa; Nhân dân là lực lượng trung tâm, đồng hành, giám sát và phản biện.
Khách thể, tức là các thiết chế văn hóa, hoạt động văn hóa, dòng chảy văn hóa, các phương tiện truyền thông, các tác phẩm nghệ thuật, phong trào văn hóa chính là đối tượng mà chủ thể vận dụng, đổi mới, phát triển. Văn hóa được xem như hệ thống quan hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể. Trong Dự thảo, việc phát huy nghề văn hóa, công nghiệp văn hóa, truyền thông, văn học nghệ thuật, di sản,… là những khách thể mà chủ thể cần tác động, đổi mới và làm mới. Một điểm nhấn mới trong Dự thảo là sự nhấn mạnh tương tác hai chiều giữa chủ thể và khách thể; không chỉ từ chủ thể truyền xuống, mà chủ thể tiếp nhận, xã hội hóa và phản biện để tạo nên sản phẩm văn hóa phù hợp thực tiễn và mang bản sắc. Điều này giúp phòng tránh quan niệm “truyền từ trên xuống” thuần túy trong phát triển văn hóa.
![]() |
| Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển bền vững. Ảnh minh họa TTXVN |
Các nội dung cốt lõi mà Dự thảo đề xuất tập trung phát triển
Một là, xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị, chuẩn mực. Dự thảo cụ thể hóa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, chuẩn mực con người. Hệ giá trị quốc gia gồm các giá trị: “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”; hệ giá trị văn hóa gồm: “dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học”; chuẩn mực con người gồm: “yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo”; hệ giá trị gia đình gồm: “tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc”.
Hai là, bảo tồn, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, “Bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế di sản”4. Đó là những yếu tố văn hóa truyền thống, văn hóa dân tộc, phong tục, tín ngưỡng, di sản, ngôn ngữ, nghệ thuật dân gian,… phải được bảo vệ, tiếp nối, kế thừa và phát huy trong đời sống đương đại, tránh lai căng, mai một. Dự thảo nhấn mạnh rằng, văn hóa không thể sao chép một cách nguyên vẹn từ bên ngoài mà cần có giá trị nội sinh đặc trưng cho dân tộc.
Ba là, kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố truyền thống và yếu tố thời đại. Văn hóa của thời đại mới cần tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, công nghệ thông tin, sáng tạo, xu hướng số hóa, nhưng phải gắn với bản sắc dân tộc, gắn với giá trị khoa học và nhân văn. Dự thảo xem việc “tiếp thu tinh hoa văn hóa, đạo đức nhân loại” là bổ sung, làm giàu cho văn hóa trong nước, nhưng phải chọn lọc để phù hợp thực tiễn đất nước.
Bốn là, phát triển công nghiệp văn hóa và nền kinh tế văn hóa. Dự thảo nhấn mạnh văn hóa phải đóng vai trò trong kinh tế thông qua phát triển công nghiệp văn hóa, sáng tạo, sản phẩm văn hóa thị trường có giá trị, du lịch văn hóa, truyền thông văn hóa. Tuy nhiên, mục tiêu không là lợi nhuận mà là lan tỏa giá trị, tạo hệ sinh thái văn hóa lành mạnh.
Năm là, đổi mới hệ thống thiết chế và cơ chế quản lý văn hóa, “chú trọng phát triển văn hóa chính trị”5. Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý văn hóa; hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ văn hóa; gắn kết quản lý nhà nước với quyền tự chủ của các cơ sở văn hóa; khuyến khích sáng tạo tự do trong khuôn khổ pháp luật; phát triển mạng lưới văn hóa, cơ sở hạ tầng văn hóa, cơ sở truyền thông, thư viện, di tích, không gian sáng tạo.
Sáu là, phát triển nguồn lực con người văn hóa. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm văn hóa; nâng cao trình độ người làm nghệ thuật, quảng bá, sáng tạo; thúc đẩy phong trào văn hóa quần chúng; phát huy vai trò của người nghệ sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ là nòng cốt sáng tạo văn hóa; khuyến khích mỗi người dân là chủ thể văn hóa sáng tạo.
Bảy là, huy động và thu hút các nguồn lực cho phát triển văn hóa. Nhà nước đầu tư, hỗ trợ; xã hội hóa, khuyến khích doanh nghiệp và cá nhân đầu tư vào văn hóa; cơ chế quỹ, ưu đãi; kết hợp đầu tư công - tư, nguồn lực xã hội; bảo đảm kinh phí, đất đai, cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa. Dự thảo nhấn mạnh phát triển văn hóa phải đi đôi với đổi mới thể chế, bảo đảm điều kiện vật chất để văn hóa lan tỏa.
Tám là, đẩy mạnh giao lưu văn hóa quốc tế, mở rộng hội nhập văn hóa. Trong khuôn khổ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, văn hóa Việt Nam cần chủ động giao lưu, mở cửa, quảng bá ra bên ngoài, đồng thời, giữ sự chủ động, bản lĩnh văn hóa. Việc này giúp chủ thể tiếp thu, trao đổi, thúc đẩy phát triển sáng tạo văn hóa. Dự thảo xác định đó là cách để văn hóa Việt Nam không bị động, yếu thế trong cạnh tranh văn hóa toàn cầu.
Những nội dung trên cho thấy, Dự thảo có cách tiếp cận toàn diện, liên ngành, gắn với cơ chế, thiết chế, con người, kinh tế, hội nhập để văn hóa thực sự trở thành trụ đỡ tinh thần và lực đẩy nội sinh cho phát triển quốc gia.
Phương thức phát triển văn hóa mà Dự thảo đề xuất cũng có những nét mới, đó là: kết hợp từ trên xuống và từ dưới lên. Đảng, Nhà nước lãnh đạo, định hướng, ban hành chính sách, hỗ trợ ban đầu; đồng thời, Nhân dân, cộng đồng, cá nhân sáng tạo, tham gia, phản biện và làm chủ văn hóa. Không chỉ “ban hành rồi thực thi” mà thực thi qua cơ chế lắng nghe, phản hồi, tiếp thu. Dự thảo nhấn mạnh: văn hóa phải gắn với đời sống xã hội, người dân là chủ thể sáng tạo. Xã hội hóa và đa dạng hóa hình thức hoạt động văn hóa. Khuyến khích các tổ chức xã hội, cá nhân, doanh nghiệp tham gia đầu tư, sáng tạo, tổ chức hoạt động văn hóa; kết hợp việc đầu tư công - xã hội - tư nhân; khuyến khích sáng tạo, đa dạng hóa sản phẩm văn hóa. Dự thảo nhấn mạnh, phát triển văn hóa “phải gắn bó với đời sống xã hội” và “lan tỏa các giá trị văn hóa” chứ không chỉ tập trung vào hình thức cao cấp. Ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong văn hóa. Trong kỷ nguyên số, Dự thảo đề xuất phương thức phát triển văn hóa gắn với công nghệ số, truyền thông mới, nền tảng kỹ thuật số để lan tỏa văn hóa nhanh chóng, hiệu quả, chủ động trong môi trường số hóa. Đặt yếu tố đổi mới công nghệ, truyền thông số là một phương thức quan trọng để phát triển văn hóa. Phát triển đồng bộ giữa trung ương và địa phương, giữa vùng này và vùng khác. Để tránh “đi trước, bỏ sau”, “một số vùng tụt hậu”, Dự thảo nhấn mạnh việc thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa vùng miền, giữa đô thị và nông thôn, giữa vùng đông dân và vùng xa. Phát triển “đồng đều” để văn hóa phát triển toàn diện. Kiểm soát chất lượng, đo lường và đánh giá hiệu quả văn hóa. Một điểm mới quan trọng là Dự thảo gợi ý phải có cơ chế đo lường, tổ chức đánh giá hiệu quả hoạt động văn hóa, kiểm tra, giám sát để tránh hoạt động hình thức, lãng phí hoặc vi phạm bản sắc. Tích hợp văn hóa vào các chiến lược phát triển khác. Phương thức phát triển văn hóa cần tích hợp vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, giáo dục, y tế, đô thị, môi trường, đô thị hóa, v.v. Văn hóa phải xuyên suốt và gắn với các trụ cột phát triển quốc gia. Dự thảo nhấn mạnh: văn hóa cùng với kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường cần đổi mới thể chế đồng bộ.
Để các mục tiêu, phương thức nói trên trở thành hiện thực, Dự thảo đề cập tới các điều kiện cần thiết thúc đẩy phát triển nền văn hóa:
1) Về thể chế, cơ chế chính sách phù hợp, đồng bộ, phải có luật, nghị định, chính sách ưu đãi, cơ chế hỗ trợ, chính sách đầu tư cho văn hóa, cơ chế quản lý phù hợp để tạo không gian cho sáng tạo, tự chủ, liên kết công - tư - xã hội. Dự thảo xác định “xây dựng, hoàn thiện và thực thi có hiệu quả, đồng bộ thể chế phát triển văn hóa” là điều kiện tiên quyết.
2) Về nguồn lực tài chính và đầu tư, cần bố trí ngân sách, quỹ văn hóa, ưu đãi thuế, hỗ trợ đất đai, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng văn hóa; huy động vốn tư nhân, xã hội hóa. Văn hóa nếu không có nguồn lực thì chỉ dừng ở khẩu hiệu. Dự thảo đề cập việc “phát huy các giá trị văn hóa trong lĩnh vực kinh tế… xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa” nên cần nguồn lực mạnh.
3) Về cơ sở hạ tầng văn hóa, thiết chế văn hóa mạnh, hiện đại, cần hệ thống thiết chế văn hóa phủ khắp (nhà văn hóa, trung tâm văn hóa, thư viện, bảo tàng, không gian sáng tạo, di tích), đặc biệt tại vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số để mọi người dân có điều kiện tiếp cận văn hóa.
4) Về con người văn hóa - đội ngũ làm văn hóa, cần đội ngũ cán bộ làm văn hóa, nghệ sĩ, trí thức văn hóa có năng lực, tâm huyết, được đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ xứng đáng. Họ là lực lượng thực thi, sáng tạo và lan tỏa văn hóa. Dự thảo chỉ rõ, phát triển nguồn lực con người văn hóa là nội dung cần tập trung.
5) Về sự đồng thuận xã hội và nhận thức các giá trị văn hóa, cần được thấu hiểu, nhận thức đúng, được tôn trọng trong xã hội. Người dân phải hiểu được tầm quan trọng của văn hóa, từ đó tự giác bảo vệ và phát triển. Sự đồng thuận là điều kiện chính trị - xã hội quan trọng để chiến lược văn hóa đi vào thực tiễn. Mục tiêu phát triển văn hóa phải “gắn bó chặt chẽ với đời sống xã hội, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và khẳng định giá trị con người trong mọi hoạt động” đòi hỏi nhận thức xã hội cao.
6) Về môi trường xã hội lành mạnh, tự do sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật; phát triển văn hóa đòi hỏi môi trường mà nghệ sĩ, trí thức và người dân sáng tạo không bị ràng buộc quá mức, được khuyến khích thử nghiệm, đổi mới, chịu trách nhiệm. Cần có cơ chế bảo đảm tự do sáng tạo trong khuôn khổ định hướng của Đảng và Nhà nước.
7) Về giao lưu, hợp tác quốc tế, hội nhập văn hóa cần có sự chọn lọc. Điều kiện để văn hóa Việt Nam phát triển mạnh trong bối cảnh toàn cầu là có cánh cửa mở, hợp tác, giao lưu, tiếp thu sáng tạo, nhưng phải giữ bản sắc, chủ động. Việc này cần cơ chế ngoại giao văn hóa, chính sách đối ngoại, hợp tác quốc tế trong văn hóa và năng lực quảng bá văn hóa ra thế giới.
Như vậy, các điều kiện vừa mang tính chính sách, vừa mang tính xã hội, vừa mang tính con người - tất cả hỗ trợ lẫn nhau để phát triển nền văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Một số yêu cầu và đề xuất định hướng giải pháp phát triển văn hóa Việt Nam
Dự thảo đặt ra một số yêu cầu để đảm bảo nền văn hóa Việt Nam phát triển đúng hướng, đó là:
Kết hợp đổi mới và kế thừa. Văn hóa Việt Nam cần kế thừa truyền thống tốt đẹp, tinh hoa dân tộc, đồng thời đổi mới sáng tạo để bắt nhịp thời đại. Việc chỉ “giữ gìn cổ truyền” hoặc chỉ “tiếp thu ngoại lai” đều không đáp ứng được. Do đó, phải “kết hợp chặt chẽ những giá trị truyền thống với giá trị thời đại” trong xây dựng hệ giá trị. Gắn văn hóa với mục tiêu phát triển con người toàn diện. Văn hóa không phải chỉ là thưởng thức, mà là quá trình thấm nhuần giá trị, giáo dục đạo đức, bồi dưỡng nhân cách, xây dựng năng lực sáng tạo. Mục tiêu phát triển con người toàn diện là yêu cầu xuyên suốt. Ưu tiên vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Việc thu hẹp khoảng cách trong tiếp cận và hưởng thụ văn hóa giữa vùng này và vùng khác là yêu cầu chính trị - xã hội cao. Nếu để vùng nào đó bị bỏ lại phía sau, tính liên kết, đồng thuận xã hội sẽ bị ảnh hưởng. Đảm bảo tính bền vững, không hình thức, không phong trào. Văn hóa cần phải đi vào thực chất, không chạy theo phong trào ngắn hạn, không để lãng phí nguồn lực; cần kiểm soát chất lượng, đánh giá hiệu quả không chỉ về lượng mà về tác dụng lâu dài. Bảo vệ bản sắc, giữ chủ quyền văn hóa. Trong hội nhập quốc tế, không để văn hóa ngoại lai lấn át, không để mất gốc, không để đồng hóa văn hóa. Cần phải chủ động tiếp thu có chọn lọc, đấu tranh chống “văn hóa xâm lược” dưới các hình thức tinh vi. Phát huy vai trò của nghệ sĩ, trí thức, đội ngũ văn hóa - nhân tố tiên phong cần được tạo môi trường sáng tạo, điều kiện để cống hiến, “Đề cao, khuyến khích vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân và những người làm công tác văn hóa”6. Tích hợp văn hóa vào hệ thống quản trị quốc gia. Văn hóa không là lĩnh vực riêng biệt, cần phải được lồng vào hệ điều hành chính sách quốc gia, hoạch định chiến lược, kiểm tra, giám sát.
Dựa trên nhận thức mới và các yêu cầu trên, dự thảo Báo cáo chính trị gợi mở một số định hướng giải pháp sau:
Hoàn thiện thể chế, chính sách ưu đãi cho văn hóa: soạn thảo, ban hành Luật Văn hóa sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi, cơ chế quản lý linh hoạt hơn. Quy định mức ngân sách tối thiểu cho văn hóa ở các cấp, hỗ trợ vốn cho công trình văn hóa, không gian sáng tạo. Ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng cho doanh nghiệp văn hóa, nghệ sĩ sáng tạo. Xây dựng cơ chế quỹ văn hóa quốc gia và địa phương, quỹ sáng tạo văn hóa.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu, đánh giá, kiểm tra văn hóa: xây dựng bộ chỉ số đánh giá hiệu quả văn hóa bảo đảm tiếp cận, hưởng thụ, sản phẩm, chất lượng. Thành lập cơ quan đánh giá, giám sát văn hóa trong hệ thống quản lý nhà nước. Định kỳ đánh giá, báo cáo về thực hiện chiến lược văn hóa tại các địa phương.
Đầu tư cơ sở hạ tầng văn hóa đồng bộ: phát triển mạng lưới nhà văn hóa, trung tâm văn hóa - thể thao, thư viện, điểm sáng tạo văn hóa ở vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số. Hỗ trợ trang thiết bị công nghệ, internet, kỹ thuật số cho vùng khó khăn để tiếp cận văn hóa số. Bảo tồn, tu bổ di tích văn hóa, di sản vật thể và phi vật thể.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm văn hóa, nghệ sĩ, trí thức văn hóa: chú trọng đào tạo chuyên sâu, đa ngành cho cán bộ quản lý văn hóa, nhà nghiên cứu văn hóa, nghệ sĩ. Thiết lập cơ chế hỗ trợ, đãi ngộ xứng đáng để giữ chân nhân tài văn hóa, tránh “chảy máu chất xám”. Xây dựng các chương trình, học bổng văn hóa quốc tế, trao đổi tri thức, nâng cao năng lực sáng tạo.
Khuyến khích sáng tạo văn hóa từ cơ sở và phong trào quần chúng: hỗ trợ cuộc thi, sáng kiến văn hóa địa phương, hoạt động văn hóa dân gian, nghệ thuật quần chúng. Kết nối các mô hình văn hóa cộng đồng, không chỉ trong đô thị lớn mà lan tỏa đến từng xã, mỗi thôn. Tạo “quỹ sáng tạo văn hóa địa phương”, hỗ trợ nhỏ để phát triển ý tưởng văn hóa mới từ dưới lên.
Ứng dụng công nghệ số và truyền thông hiện đại: phát triển nền tảng số hóa văn hóa: thư viện số, kho bản quyền điện tử, bảo tàng ảo, ứng dụng di động văn hóa. Tạo kênh truyền thông đa phương tiện để giới thiệu văn hóa tới người dân mọi miền đất nước. Hỗ trợ doanh nghiệp sáng tạo nội dung số văn hóa - âm nhạc, phim, trò chơi, nghệ thuật đa phương tiện; đồng thời, kiểm soát bản quyền và chất lượng.
Đẩy mạnh giao lưu, hợp tác quốc tế trong văn hóa: tăng cường ngoại giao văn hóa, ký kết thỏa thuận hợp tác văn hóa, trao đổi nghệ thuật quốc tế. Triển khai chương trình quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới thông qua viện văn hóa, đại sứ quán, sự kiện quốc tế. Học hỏi kinh nghiệm quản lý văn hóa của quốc gia bạn, tiếp thu có chọn lọc, hợp tác sản xuất văn hóa liên quốc gia.
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và hệ thống chính trị trong phát triển văn hóa: đưa văn hóa vào nghị quyết, chương trình trọng điểm của Đảng và Nhà nước, “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về văn hóa”7. Tổ chức diễn đàn văn hóa định kỳ, lắng nghe phản biện xã hội, Nhân dân.
Xây dựng phong trào văn hóa trong lực lượng vũ trang, quốc phòng: chú trọng lan tỏa văn hóa trong lực lượng vũ trang, xây dựng giá trị văn hóa quân đội, truyền thống, bản sắc, tinh thần chiến đấu, gắn kết với dân tộc. Tổ chức các hoạt động văn nghệ, sáng tác văn hóa quân đội, truyền thông văn hóa quốc phòng để kết nối quân dân.
Tổ chức thực nghiệm, mô hình điểm và nhân rộng: khởi động các mô hình văn hóa điểm tại tỉnh, xã để thử nghiệm cách làm mới, cơ chế mới, sản phẩm văn hóa mới. Rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình thành công ra phạm vi rộng hơn.
Dự thảo Báo cáo chính trị thể hiện bước tiến quan trọng trong nhận thức và tư duy của Đảng ta về văn hóa: từ việc xem văn hóa như “nền tảng tinh thần” đã vượt lên thành “nguồn lực nội sinh, động lực phát triển”, kết hợp hệ giá trị, chủ thể - khách thể, con người - thiết chế, công nghệ - bản sắc trong một chiến lược đồng bộ.
Cách tiếp cận và điểm mới của Dự thảo là rõ ràng: xác định mục tiêu văn hóa tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc, đối tượng là toàn dân nhưng có ưu tiên vùng khó khăn, chủ thể là Nhân dân và hệ thống chính trị, nội dung tập trung vào hệ giá trị, công nghiệp văn hóa, thiết chế, con người, phương thức kết hợp từ trên xuống và từ dưới lên, ứng dụng công nghệ số, đồng bộ hóa địa phương và Trung ương, là những bước thiết thực để hiện thực hóa tầm nhìn văn hóa thời đại mới. Những quan điểm và định hướng trong dự thảo Báo cáo chính trị giúp văn hóa Việt Nam thực sự trở thành động lực nội sinh, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới.
Thiếu tướng, PGS, TS, NGND. NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
_____________________
1 - ĐCSVN – Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại đại hội đảng bộ các cấp), Nxb CTQGST, H. 2025, tr. 27.
2 - Sđd, tr. 28.
3 - Sđd, tr. 28.
4 - Sđd, tr. 27.
5 - Sđd, tr. 28.
6 - Sđd, tr. 28.
7 - Sđd, tr. 28.


