Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 - quan điểm hòa bình, tự vệ

12/25/2019 2:49:00 PM

Kể từ năm 2009 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, làm cơ sở để xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, mang tính hòa bình, tự vệ. Để tăng cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin giữa các quốc gia, cộng đồng quốc tế với Việt Nam, vừa qua, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã công bố, công khai, minh bạch sách trắng “Quốc phòngViệt Nam 2019”. 

Những yếu tố tác động trực tiếp đến quốc phòng Việt Nam

Có thể nói, nhân loại bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với môi trường an ninh, chính trị, kinh tế,... diễn biến phức tạp: xâm phạm chủ quyền, tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc, tôn giáo. Cục diện thế giới đang chuyển từ đơn cực sang đa cực, đa trung tâm. Vì lợi ích quốc gia - dân tộc, các cường quốc chủ động điều chỉnh chiến lược, trong đó nổi lên là: Chiến lược “Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở” của Mỹ; Sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc; Chiến lược “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ,… thu hút sự quan tâm của nhiều nước và cộng đồng quốc tế. Nhưng nhìn chung, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Khu vực Đông Nam Á (ASEAN) là một trong các khu vực có nền kinh tế năng động, phát triển, có tầm ảnh hưởng cao, là đối tác quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Khối ASEAN ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh châu Á - Thái Bình Dương, được thể hiện ở Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+). Đây là hai cơ chế hợp tác hiệu quả, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Bên cạnh đó, khu vực Biển Đông còn tiềm ẩn nhiều vấn đề phức tạp, trong đó có các hành động đơn phương, áp đặt dựa trên sức mạnh, bất chấp luật pháp quốc tế và các hoạt động quân sự hóa của nước ngoài, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam.

Trong nước, sau hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế - xã hội đạt và vượt chỉ tiêu, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, nền kinh tế năng động, kinh tế vĩ mô ổn định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng rõ hơn, v.v. Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố, tăng cường; khối đại đoàn kết các dân tộc được giữ vững, v.v. Quân đội nhân dân được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Việt Nam tích cực và chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng. Quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, bạn bè truyền thống tiếp tục được củng cố, phát triển và mở rộng, v.v. Bên cạnh đó, nước ta cũng gặp không ít khó khăn: các thế lực thù địch quyết liệt chống phá Đảng, Nhà nước; phát triển kinh tế chưa thực sự bền vững; biến đổi khí hậu đã có những tác động không nhỏ đến quốc phòng, v.v.

Xuất phát từ những yếu tố khách quan và chủ quan, những năm qua, Việt Nam đã có một số chủ trương, đường lối lớn về quốc phòng, như: Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng, Chiến lược Quân sự Việt Nam,... đồng thời, phát triển một số lực lượng và mua sắm trang thiết bị, kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để các quốc gia, cộng động quốc tế cũng như công dân Việt Nam hiểu đúng hơn về chính sách quốc phòng Việt Nam, vừa qua, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019.

Công khai, minh bạch chính sách quốc phòng

Trước hết, cần phải khẳng định,chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chất hòa bình, tự vệ, khi thực hiện kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Trên cơ sở theo dõi, nắm chắc diễn biến tình hình thế giới, khu vực, trong nước, Việt Nam cân nhắc, phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp, song tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế.

Trong công cuộc bảo vệ đất nước, Việt Nam kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt, chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) xác định rõ đối tác, đối tượng: những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá Việt Nam, xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam đều là đối tượng. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang, song có chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ chức tinh, gọn, mạnh, linh hoạt, hiệu quả cao; cơ cấu tổ chức đồng bộ; điều chỉnh, mở rộng, phát triển lực lượng hợp lý, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ tác chiến. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, chất lượng cao, hiệu quả thiết thực, phù hợp với từng địa bàn, loại hình tổ chức kinh tế, xã hội.

Đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam là quốc gia có trách nhiệm và thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ; đồng thời, tích cực hợp tác cùng các quốc gia giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Việt Nam đánh giá cao vai trò của Liên hợp quốc trong hoạt động gìn giữ hòa bình, ngăn ngừa xung đột chiến tranh, thực thi những chuẩn mực cốt lõi của quan hệ quốc tế trong Hiến chương Liên hợp quốc.

Xuất phát từ chủ trương ủng hộ và tích cực đóng góp vào những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế vì hòa bình, an ninh và giải trừ quân bị, Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ của nước thành viên công ước, hiệp định, nghị định thư về cấm phổ biến các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (ASEANWFZ), các công ước quốc tế về giải trừ quân bị và đang tích cực xem xét, chuẩn bị điều kiện cần thiết để tham gia các công ước, điều ước quốc tế trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, dự báo có nhiều diễn biến phức tạp, tác động trực tiếp đến Việt Nam, nên cần ưu tiên giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống trong hợp tác quốc phòng với các nước trong khu vực và trên thế giới; mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác song phương và đa phương để phòng ngừa, đối phó hiệu quả các thách thức an ninh phi truyền thống và khắc phục hậu quả chiến tranh. Đó là chính sách quốc phòng Việt Nam 2019 đã, đang và sẽ thực hiện nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Xây dựng Quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

Trên cơ sở tiềm lực, điều kiện kinh tế và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam phấn đấu từ năm 2030, xây dựng Quân đội hiện đại cả về tổ chức, biên chế; không ngừng nâng cao trình độ quân sự, chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nghệ thuật quân sự, phương thức tác chiến, vũ khí, trang bị kỹ thuật và công tác bảo đảm. Vấn đề đặt ra trước hết là tập trung xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, cơ sở để nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội - yếu tố quan trọng hàng đầu nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu. Đây là nguyên tắc trong tổ chức hoạt động của Quân đội, thể hiện quan điểm coi con người là yếu tố quyết định thắng lợi trên chiến trường. Trong điều kiện các thế lực thù địch đang chống phá quyết liệt, đòi “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của Quân đội. Trên cơ sở đó, làm cho Quân đội trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vững tin vào sự nghiệp đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Việt Nam chú trọng xây dựng Quân đội về tổ chức, biên chế và nguồn nhân lực chất lượng cao, bảo đảm phù hợp với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân của Đảng; đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ; lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên; lực lượng chiến đấu và bảo đảm chiến đấu; lục quân với các quân chủng, binh chủng; tổng quân số với khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị. Cùng với đó, bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu xây dựng Quân đội, các chương trình, dự án trọng điểm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở, vật chất kỹ thuật; nghiên cứu ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến; làm chủ công nghệ chế tạo một số loại vũ khí, trang bị hiện đại cho lục quân, các quân chủng, binh chủng; tiến tới thiết kế, sản xuất một số vũ khí, trang bị quốc phòng có ý nghĩa chiến lược, v.v.

Đi đôi với công tác tổ chức, biên chế và xây dựng nguồn nhân lực, Quân đội nhân dân Việt Nam còn coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện, diễn tập; thường xuyên đổi mới toàn diện công tác này phù hợp với tổ chức, biên chế, trang bị và sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Cùng với đó, tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, nhất là cán bộ chiến dịch, chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, phấm chất đạo đức tốt, nắm chắc nghệ thuật quân sự, nghệ thuật tác chiến quân chủng, binh chủng, ngành, tác chiến của các binh đoàn chủ lực và của chiến tranh nhân dân địa phương trong các loại hình tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân, tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng; khai thác và làm chủ vũ khí, khí tài, trang bị hiện có, bằng nghệ thuật quân sự Việt Nam theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”. Thường xuyên tổ chức diễn tập nhằm rèn luyện năng lực toàn diện về lãnh đạo, chỉ huy, điều hành của chỉ huy, cơ quan đối với các lực lượng; nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy, hiệp đồng bảo đảm tác chiến, xử trí tình huống chiến lược; thường xuyên bổ sung, hoàn thiện phương án tác chiến, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Để sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, Quân đội nhân dân Việt Nam chủ động huấn luyện, diễn tập với các tình huống: tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, hỗ trợ nhân đạo, tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đồng thời, tham gia huấn luyện, diễn tập các nội dung này với một số nước, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của các nước; phù hợp luật pháp quốc tế, pháp luật và điều kiện, khả năng của Việt Nam,... góp phần duy trì hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 góp phần tăng cường sự hiểu biết và xây dựng lòng tin giữa Việt Nam với các quốc gia, cộng đồng quốc tế; tài liệu quan trọng để nâng cao sự hiểu biết của cả hệ thống chính trị và toàn dân về quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ; từ đó, xác định ý thức, trách nhiệm công dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Đại tá ĐỖ HẢI ÂU