Quyền tự do ngôn luận, báo chí - Những cái giá phải trả cho nhận thức sai lầm

6/10/2020 8:38:13 AM

Trong những ngày cuối tháng 5 vừa qua, những ai có thói quen “lướt  Web” - đọc thông tin trên internet, mạng xã hội thì đều thấy cơ quan chức năng vừa bắt tạm giam hai kẻ vi phạm pháp luật. Đó là trường hợp blogger “Bà Đầm Xòe - Phạm Thành” (bị bắt ngày 21/5), do xúc phạm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tường Thụy (bắt tạm giam vào sáng ngày 23/5/2020) về tội “làm, tàng trữ, phát tán thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước” (theo Điều 117, Bộ luật Hình Sự, 2019). Cả hai trường hợp nói trên đều vi phạm pháp luật về quyền tự do ngôn luận báo chí. Vậy quyền tự do ngôn luận báo chí là gì? Trong bối cảnh internet, mạng xã hội ngày nay có điều gì cần lưu ý?

Theo nghĩa thông thường, quyền quyền tự do ngôn luận báo chí được hiểu đó là một quyền con người, quyền công dân. Về nội dung, đó là quyền của tất cả mọi người trong việc tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, v.v.

Về nguồn gốc, quyền tự do ngôn luận báo chí được quy định trong nhiều văn kiện quốc tế và Việt Nam. Trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, cộng đồng quốc tế đã nhất trí xem quyền con người bao gồm cả quyền tự do ngôn luận báo chí như là một mục tiêu. Khoản 3, Điều 1 của Hiến chương quy định “Khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam, nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Sau Hiến chương Liên hợp quốc, “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam đã gia nhập năm 1982) quy định cụ thể hơn về quyền này. Tại khoản 2, Điều 19 viết: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, …”. Như vậy, quyền này bao gồm 3 nội dung cơ bản: 1- Quyền tự do “tìm kiếm” thông tin; 2- Quyền “tiếp nhận” (đọc và nhận thức, thể hiện quan điểm của cá nhân) thông tin; 3- Quyền “truyền đạt” mọi thông tin.

Về hình thức thông tin, Công ước quy định: “không phân biệt lĩnh vực, hình thức bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật,…”. Khoản 3, Điều 19 quy định “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định. Tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để:  “a- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Điều đáng chú ý là, quy định về hạn chế quyền nhằm “Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng” (Khoản b). Từ khoản b của Công ước 1966, người ta thấy quyền tự do ngôn luận báo chí tuy ở mỗi thể chế xã hội khác nhau, nhưng việc bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội…và tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác vẫn được cộng đồng quốc tế thừa nhận như một nguyên tắc hạn chế quyền.

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận báo chí từng bước được xác lập và ngày càng hoàn thiện. Năm 1945, trước khi Liên hợp quốc ra đời, tháng 10/1945, ngày 2/9/1945, trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” Pháp, 1791. Trong đó, Người tái khẳng định: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Như vậy, theo Tuyên ngôn độc lập 1945, mọi người đều có đầy đủ, bình đẳng về các quyền và nghĩa vụ.

Sau Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; Tự do xuất bản; Tự do tổ chức và hội họp…” (Điều 10). Các bản Hiến pháp tiếp nối Hiến pháp 1946, như: Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 đều khẳng định và mở rộng quyền tự do ngôn luận báo chí.

Công cuộc đổi mới mở đầu từ Đại hội VI (1986) đã mở ra một thời kỳ phát triển mới của Việt Nam. Dựa trên Đường lối Đại hội VI, mô hình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu mới được thiết lập. Thay cho mô hình kinh tế cũ - kinh tế quan liêu  bao cấp, Đại hội VI quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản chủ nghĩa. Về chính trị, mô hình đổi mới, đó là nhà nước pháp quyền, pháp luật tối thượng, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

Hiến pháp 2013 đã dành riêng một chương (Chương II) quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó Điều 25 nêu rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng thời, Điều 25 cũng nêu nguyên tắc hạn chế quyền: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Luật Báo chí năm 2016 cũng quy định về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Điều 13 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Đặc biệt, khoản 3, Điều 13 quy định: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”. Đồng thời, Luật này cũng quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”.

Năm 1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí năm 1989. Mười năm sau, năm 1999, Quốc hội thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1989. Năm 2016, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung đã được Quốc hội khóa XIII thông qua (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017).

Trong điều kiện internet, mạng xã hội quyền tự do ngôn luận báo chí bao gồm quyền và nghĩa vụ của cá nhân, cơ quan (báo chí) trên internet, mạng xã hội đã được Quốc hội ta luật hóa. Luật Tiếp cận thông tin (2016 và Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15/07/2013) của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng tái khẳng định định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận báo chí. Có thể nói, tiếp cận thông tin là một quyền mới. Quyền tiếp cận thông tin, bao gồm: Quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; Quyền cung cấp thông tin cho báo chí; Quyền phản hồi thông tin trên báo chí v.v… Như vậy, quyền tiếp cận thông tin không chỉ là một quyền thụ động (do cơ quan nhà nước công khai thông tin) mà còn là một quyền chủ động, quyền của người dân được đòi hỏi các cơ quan, tổ chức nhà nước đáp ứng thông tin.

Tuy nhiên, trên không gian mạng, Nhà nước ta đã có những quy định về quyền tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin và những hạn chế quyền nhất định. Theo đó, công dân có quyền được sử dụng các dịch vụ trên internet, trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh thông tin; phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin do mình lưu trữ, cung cấp, truyền đưa trên mạng xã hội, v.v.

Trên môi trường internet, mạng xã hội, một số kẻ nghĩ rằng trên thế giới ảo thì sự vi phạm pháp luật của chúng có thể bị các cơ quan chức năng bỏ qua. Hai trường hợp bị cơ quan chức năng bắt vừa qua là những trường hợp vi phạm pháp luật trên internet, mạng xã hội. Điều 16, Luật An ninh mạng quy định về tội: a) Xúc phạm nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; b) Thông tin bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Chứng cứ mà các cơ quan chức năng thu thập được là các thông tin ở các tài khoản của chúng trên internet, cũng như những tài liệu còn được lưu giữ trên máy tính và điện thoại di động mà chúng đang sử dụng. Phân tích hai trường hợp vừa bị bắt cho thấy, đây là những kẻ đã từng nhiều lần vi phạm pháp luật. Hơn nữa, chúng vốn là những kẻ chống phá chế độ đã lợi dụng xã hội đang tập trung vào chống đại dịch Covid để phát tán thông tin xấu độc để thực hiện mưu đồ của mình.

Nói như một blogger, cái sai “chết người” của Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy ở đây là: Chúng đã xúc phạm nhân phẩm, danh dự Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cả hai phương diện: 1- Là một công dân Việt Nam (được pháp luật bảo vệ); 2- Trên cương vị Tổng Bí thư, Chủ tịch nước được toàn Đảng, toàn dân kính trọng, tín nhiệm, đương nhiên cũng được thể chế xã hội bảo vệ. Mặt khác, chúng còn soạn thảo và tàng trữ nhiều tài liệu xấu độc, chuẩn bị tán phát trên không gian điện tử. Việc hai blogger của Đài Á Châu Tự Do: Phạm Thành và Nguyễn Tường Thụy bị bắt và xử lý là đúng với các quy định của pháp luật Việt Nam.

TS. CAO ĐỨC THÁI, Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh