Đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống

Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ

11/20/2018 6:58:01 AM

Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đây là Nghị quyết với nhiều đổi mới quan trọng, có tính đột phá, khả thi và sát với tình hình thực tế, cần được các cấp, ngành, mọi cán bộ, đảng viên quán triệt, thực hiện nghiêm, hiệu quả.

1. Vị trí, vai trò của cán bộ cấp chiến lược

Cán bộ cấp chiến lược là những cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý1; giữ vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Đây là lực lượng nòng cốt, vận hành hệ thống chính trị hoạt động; đề xuất những ý tưởng mới, sáng tạo, tư duy chiến lược, dài hạn; hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô của đất nước; dự báo kịp thời sự thay đổi của tình hình và điều chỉnh nhanh nhạy các quyết sách theo sự thay đổi đó. Trên cương vị của mình, họ tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Ngoài ra, cần phải coi các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là thuộc cán bộ cấp chiến lược; bởi họ hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực tinh thần, cung cấp những căn cứ, luận cứ khoa học để xây dựng các quyết sách, qua đó tác động vào công tác lãnh đạo chiến lược của Đảng, Nhà nước, mặc dù có những người không thuộc diện quản lý của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Như vậy, có thể nói, cán bộ cấp chiến lược là tầng lớp “tinh hoa” của đất nước, những người ở tầm cao trí tuệ, có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín để điều hành đất nước phát triển.

2. Thực trạng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và công tác xây dựng đội ngũ này

Qua hơn 30 năm đổi mới, đội ngũ cán bộ nước ta nói chung, trong đó có cán bộ cấp chiến lược đã có sự trưởng thành, lớn mạnh. Đó là nhân tố then chốt quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) nhận định, nhìn chung cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tư duy đổi mới, khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Nghị quyết cũng đã chỉ ra một số hạn chế, bất cập của đội ngũ cán bộ này. Đó là, cơ cấu về độ tuổi, giới tính, dân tộc, về chuyên môn đào tạo ở nhiều cơ quan, đơn vị chưa bảo đảm, chưa hợp lý; thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực; trình độ, năng lực, chuyên môn, ngoại ngữ,… chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đáng chú ý, một số cán bộ chưa thật sự vững vàng, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lợi ích nhóm, chủ nghĩa cá nhân, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; thậm chí có cán bộ cấp cao, trong đó có cả ủy viên Trung ương vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng đã bị xử lý kỷ luật và bị pháp luật trừng trị, v.v. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế thành quả của đổi mới, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Những ưu điểm và hạn chế, bất cập của đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có một phần bắt nguồn từ những ưu điểm, thành công cũng như những hạn chế, bất cập của công tác cán bộ, đòi hỏi Đảng phải đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

3. Phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ

Từ thực trạng và trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới, trong nước, yêu cầu về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã ra Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, với quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, có tính khả thi cao. Việc quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm, hiệu quả Nghị quyết là trách nhiệm của mọi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên; trong đó, cần thực hiện tốt những nội dung trọng tâm sau:

Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bài học về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tan rã của Đảng Cộng sản ở Liên Xô bắt nguồn từ sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức của cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược; sự sai lầm về đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, đối ngoại của Trung ương Đảng và có cả sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước Liên Xô. Từ bài học đó và từ thực tiễn Việt Nam, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho các cấp, ngành, mọi cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về vai trò của cán bộ cấp chiến lược; coi cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, công việc thường xuyên của Đảng. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững của đất nước. Theo đó, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là những người có tâm, có tầm, có trí, có tư duy chiến lược, tầm nhìn xa trông rộng, có năng lực dự báo tình hình; không sa vào chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, không tham nhũng, quan liêu, vụ lợi, không tham vọng quyền lực; suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; luôn gần dân, sát dân, học dân, tôn trọng ý kiến của nhân dân, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có phong cách làm việc khoa học, khiêm tốn, không phô trương, bệnh hình thức; kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, quan điểm sai trái, thù địch, v.v. Chỉ có xây dựng được một đội ngũ cán bộ cấp chiến lược với những yêu cầu cao trên đây, Đảng mới hoàn thành được trọng trách trước dân tộc trong giai đoạn mới của cách mạng.

Hai là, đổi mới công tác tuyển chọn, quy hoạch, luân chuyển cán bộ cấp chiến lược. Lịch sử phát triển của đất nước cũng như trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng phát hiện, trọng dụng, phát huy những người tài năng để họ đóng góp cho đất nước. Kế thừa tinh thần đó, Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) xác định: đổi mới cách tuyển chọn, đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ để có nguồn cán bộ dồi dào, tài năng, nhất là cán bộ trẻ. Theo đó, Trung ương cần hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, tạo nguồn cán bộ kế cận lâu dài, chất lượng cho cách mạng. Chú ý lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được đào tạo theo chức danh, được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp. Đồng thời, quan tâm nâng cao chất lượng, có chính sách ưu đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trên những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới.

Thời gian qua, khi luân chuyển cán bộ thường chỉ bố trí làm cấp phó, thiếu sự kết nối giữa nơi đi và nơi đến, nên cán bộ không có điều kiện thể hiện, phát huy năng lực của mình. Cán bộ được luân chuyển thường chỉ muốn làm “tròn vai”, “giữ mình” để rồi về, hoặc chờ thăng chức, v.v. Rút kinh nghiệm việc đó, cần xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển cán bộ phù hợp, hướng vào địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi thí điểm mô hình mới để thử thách, rèn luyện, đào tạo cán bộ. Việc đổi mới công tác đánh giá cán bộ phải bảo đảm thực chất, chính xác, nhất là đối với nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các chức danh cấp chiến lược; không để lọt những người không xứng đáng, những người chạy chức, chạy quyền vào Trung ương; không xem xét, quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị. Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo hướng nâng cao chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt.

Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Năng lực của cán bộ là sự kết tinh của nhiều yếu tố: trí tuệ, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn,… được hình thành qua quá trình học tập, rèn luyện gian khổ; trong đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng của các cấp có vai trò quan trọng. Vì vậy, Đảng cần tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, cấp chiến lược nói riêng, nhất là về khoa học, lý luận, ngoại ngữ, cập nhật kiến thức mới. Các cơ sở đào tạo cần đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lý luận chính trị; gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, giữa nhận thức với hành động, giữa học tập với rèn luyện, giữa lý luận với nâng cao kỹ năng thực hành; chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, nhất là tư duy chiến lược; kiên quyết khắc phục tình trạng lười học tập lý luận, chạy theo bằng cấp. Trên cơ sở rút kinh nghiệm các lớp dự nguồn Trung ương khóa XII, cần đổi mới chương trình, bố trí giảng viên phù hợp, tiếp tục mở các lớp dự nguồn Trung ương khóa XIII và dự nguồn cán bộ các cấp để chuẩn bị các chức danh cho cấp chiến lược.

Bốn là, có cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Thực tiễn một số vụ án tham nhũng gần đây cho thấy, quyền lực chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp chưa bị kiểm soát, nên dẫn đến hiện tượng lạm quyền, lộng quyền trong công tác cán bộ, gây hậu quả nghiêm trọng trên nhiều mặt. Đặc biệt, đối với cán bộ cấp chiến lược, nếu để xảy ra tình trạng này thì hậu quả còn lớn hơn gấp nhiều lần. Vì vậy, việc cấp bách hiện nay là phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch. Đề cao trách nhiệm của cán bộ trong tự kiểm soát bản thân, không có biểu hiện lạm quyền, lộng quyền, chạy chức, chạy quyền, bảo đảm mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ, quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn. Đồng thời, quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ, bảo đảm công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nâng cao vai trò người đứng đầu trong công tác cán bộ; quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ theo các quy định của Trung ương. Cùng với đó, cần xây dựng, thực hiện tốt các chế độ, chính sách, nhất là thực hiện đúng lộ trình cải cách tiền lương, chính sách nhà ở cho đội ngũ cán bộ.

Năm là, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ đến với nhân dân, vì vậy phải tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa cán bộ với nhân dân. Cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược phải gần dân, sát dân, trọng dân, vì dân, phải làm lợi cho dân; cán bộ phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và nhân dân có trách nhiệm xây dựng đội ngũ cán bộ trong tất cả các khâu của công tác cán bộ. Theo đó, phải tạo điều kiện và có những hình thức phù hợp để nhân dân đánh giá, đề xuất về quy hoạch, phát hiện những nhân tố mới, những ưu điểm, khuyết điểm, kiến nghị với lãnh đạo về cán bộ. Muốn vậy, phải tăng cường tính công khai, minh bạch về cán bộ; cụ thể hóa và thực hiện tốt cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra để nhân dân có điều kiện kiểm tra, giám sát, nhất là giám sát việc thực thi quyền lực, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của nhân dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Tăng cường việc cấp ủy địa phương, nhất là người đứng đầu tiếp dân, dự sinh hoạt chi bộ khu dân cư một cách thực chất, hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân về cán bộ.

Mục tiêu đến năm 2030 xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhất là cấp chiến lược thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, phẩm chất, năng lực và uy tín; có trên 15% dưới 45 tuổi2 và từ 40%-50% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế,… là yêu cầu cao đối với công tác cán bộ của Đảng. Song, với quyết tâm cao, sự vào cuộc của toàn Đảng, các cấp, các ngành, của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tin tưởng rằng, Nghị quyết sẽ được thực hiện hiệu quả, xây dựng được đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo, tổ chức toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

GS, TS. LÊ HỮU NGHĨA, Nguyên Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
_________________

1 - Gồm các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo từ cấp phó trở lên của các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và cấp ủy của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo Ban Tổ chức Trung ương, tính đến ngày 30-10-2017, số lượng cán bộ cấp chiến lược (chưa kể các chuyên gia đầu ngành) có 610 người, gồm: 379 người công tác ở Trung ương và 231 người công tác ở địa phương.

2 - Hiện nay, số cán bộ cấp chiến lược có độ tuổi dưới 45 là 36 người (5,9%).